Hình ảnh

Hình ảnh

Chủ Nhật, 4 tháng 7, 2010

Danh tướng Nguyễn Công Nhàn

Nguyễn Công Nhàn (? - ?) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1861, quân Pháp tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn đã bỏ thành Mỹ Tho để đào thoát, hành động này đã bị nhiều người Việt chê trách. Tuy nhiên xét khía cạnh khác, ông vẫn được xem là người có công giữ gìn bờ cõi, là người chủ xướng việc đào kênh Long An Hà ở An Giang đem lại nhiều lợi ích thiết thực.

I. Sự nghiệp:
Nguyễn Công Nhàn sinh ở Biên Hòa. Lớn lên, ông học ở trường đào tạo võ nghệ Anh Danh do triều Nguyễn thành lập, được bổ làm lính hiệu nhờ học giỏi.

Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), Nguyễn Công Nhàn làm Phó vệ úy Khánh Hòa, rồi Định Tường.

Gặp lúc ở Khai Biên thuộc Hà Tiên có một người tên Châu vận động dân chúng nổi dậy, ông cùng Phó lãnh binh Nguyễn Tiến Phúc dẫn quân đến ruồng bố, bắt được già trẻ, trai gái khoảng 400 người. Việc tâu lên, Nguyễn Công Nhàn được thăng Vệ úy.

Cuối năm 1839, ông được điều sang Trấn Tây thành (Chân Lạp) làm Phó lãnh binh. Một hôm, bị quân Xiêm kéo đến vây đồn, ông chỉ huy quân lính chống trả quyết liệt suốt 24 ngày đêm mới được Lãnh binh Đoàn Văn Sách đến cứu. Tháng 11, quân Xiêm lại kéo nhau đến đánh phá. Đoàn Văn Sách bị thương nặng tại trận, nhờ ông xông đến cứu thoát, được nhà vua khen là dũng tướng, thăng cho một cấp quân công.

Năm 1840, Nguyễn Công Nhàn được thăng làm Lãnh binh Trấn Tây thành. Cũng trong năm này, ông đem khoảng 700 quân đánh mấy ngày liền, phá tan hơn 10 đồn của quân Xiêm từ Mi Súc đến Tà Sà, thu được rất nhiều vũ khí. Lần này, ông được vua Minh Mạng thưởng cho một tấm bài vàng có khắc chữ "hùng dũng tướng" để đeo.

Năm 1841, vua Minh Mạng qua đời, vua Thiệu Trị kế ngôi. Nhà vua mới duyệt xét chiến công, thăng cho Nguyễn Công Nhàn làm thự Chưởng vệ, sung Tham tán.

Khoảng thời gian này, ở miền Nam và ở Chân Lạp, có nhiều cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của nhà Nguyễn, các tướng là Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ,... cứ phải đem quân đi tiễu trừ, đánh được chỗ này thì chỗ khác nổi lên. Quan quân có lúc chống không nổi, triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Vì vậy khi nghe Tạ Quang Cự tâu rằng nên bỏ Trấn Tây thành (Chân Lạp), rút quân về giữ An Giang, nhà vua liền nghe theo.

Về nước, Nguyễn Công Nhàn hội binh với các tướng đi tiễu trừ cuộc nổi dậy của Lâm Sâm ở phủ Lạc Hóa (nay là Trà Vinh). Đánh dẹp được, nhà vua thăng ông làm thự Đốc bộ tỉnh An Giang rồi hiệp với tướng Nguyễn Văn Điển đi đánh quân Xiêm đang quấy nhiễu ở vùng biên của tỉnh.

Tháng 2 (âm lịch) năm Nhâm Dần (1842), hơn chục ngàn quân Xiêm kéo sang Hà Âm (vùng biên giới Châu Đốc-Hà Tiên) lập rất nhiều đồn lũy. Bên bờ kênh Vĩnh Tế, Nguyễn Công Nhàn bàn với tướng Điển chia quân ra đánh lẻ vì lực lượng quân triều ít hơn. Nhờ vậy mà đuổi được quân xâm lấn, được nhà vua khen ngợi, cho ông làm Đốc bộ An Giang.

Cũng trong năm này, ông cùng với tướng Lê Văn Đức và Tôn Thất Bạch đánh đuổi được quân Xiêm ở Sâm Phủ, Bàn Ly, Sách Nô...lại được thăng làm Tổng đốc An Hà (An Giang-Hà Tiên). Ngoài ra, nhà vua còn cho phép ông được đề chữ "hùng dũng tướng" trước họ tên mỗi khi viết công văn hay tấu sớ.

Tháng 10 (âm lịch) năm 1843, Đốc bộ Nguyễn Công Nhàn hiệp cùng thự Tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ cùng xin vua cho khởi đào kênh Tân Châu (nay là kênh Vĩnh An) ở tỉnh An Giang, được nhà vua y cho.

Tháng giêng năm 1844, hơn nghìn người Chân Lạp lại đến đắp đồn lũy ở biên giới tỉnh An Giang. Tổng đốc Nguyễn Công Nhàn liền sai Lãnh binh Nguyễn Văn Hoàng đến đánh đồn Đa Phúc, Tuần phủ An Giang là Nguyễn Công Trứ đến đánh đồn Cần Thăng. Việc tuy xong, nhưng nhà vua trách rằng: “chỗ ấy ở vào khoảng giữa hai là đồn Đa Phúc và Cần Thăng, cách tỉnh thành lại không xa, cớ sao giặc Man đắp lũy ngầm mà các ngươi có trách nhiệm không từng biết đến! Chức vụ ở chỗ nào?”. Liền sau đó, Phó vệ uý Vũ Văn Tô, Hiệp quản Nguyễn Bích đều bị giáng một cấp.

Năm 1844, Đào Văn Quận ở An Giang gửi đơn kiện Nguyễn Công Nhàn về việc nhận tiền hối lộ. Xét chuyện có thật, ông bị giáng bốn cấp, cắt lương một năm. Rồi vì không ưa Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn gửi sớ tâu rằng viên quan này đã lén phái người mua riêng sừng tê giác và đậu khấu. Nhà vua sai Tham tri Trần Ngọc Giao đi tra vấn. Khâm sai Giao về bẩm việc không đúng như lời tâu, ông mắc tội vu cáo bị xử phạt trượng, phát lưu [1].

Tuy nhiên khi án dâng lên, nhà vua xét công trạng cũ cho giảm án, nên ông chỉ bị cách hết chức tước, buộc đến làm việc dưới quyền của Tôn Thất Bá. Nhưng không bao lâu, thì ông được phục chức Hiệp quản vì "có công đánh loạn ác man" (chữ trong sử Nguyễn).

Năm 1845, ông được bổ làm Phó lãnh binh phủ Tây Ninh, nhưng chỉ năm sau (1846) thì được điều đi đánh đuổi quân Chân Lạp đang quấy nhiễu ở vùng biên giới An Giang.

Năm 1847, việc Chân Lạp đã tạm lắng yên. Xét công, nhà vua phong cho ông tước Trí Thắng nam, được trả lại thẻ bài "hùng dũng tướng" và được khắc tên vào cổ súng Thần uy phục viễn (cổ thứ tư). Sau đó, ông được cử làm Lãnh binh Bình Định.

Năm Tự Đức thứ 9 (1856), Nguyễn Công Nhàn được thăng Chưởng vệ, lãnh chức Tuần phủ Hà Tiên, kiêm Bố chính sứ.

Đầu năm 1859, quân Pháp hãm thành Gia Định, Tổng thống quân vụ là Tôn Thất Hiệp xin cho ông làm Đề đốc quân vụ để cùng chống ngăn quân xâm lược. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Định thất thủ. Tháng 7, Nguyễn Công Nhàn được bổ làm Hộ lý An Giang, rồi Tổng đốc Định Tường.

Ngày 26 tháng 3 năm 1861, quân Pháp tổ chức tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn bỏ chạy về Kiến Đăng. Để thành Mỹ Tho mất, ông bị lột hết chức tước.

Đến tháng 12 cùng năm, quân Pháp tiến đánh Biên Hòa. Theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 25, tr. 540) thì đình thần khi ấy đã tâu lên rằng:
Công Nhàn vốn thạo việc trận, ở triều đình không ai hơn được. Xin gia ơn cho Nhàn phục quân vệ, sung làm đốc binh, theo Nguyễn Tri Phương đi Biên Hòa bàn làm việc quân. Rồi sáu tỉnh (Nam Kỳ lục tỉnh) không giữ được, không biết công Nhàn về sau như thế nào.
Nhận xét

Trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 25, tr. 541) đã khen ngợi Nguyễn Công Nhàn như sau:

Công Nhàn xuất thân từ người tướng hiệu nhỏ, trải qua nhiều trận, mạnh mà có chí. Về phép hành quân, Nhàn có thể lấy số quân ít đánh số quân nhiều; lại khéo dỗ quân lính, không nỡ khinh, dối, cho nên ai cũng đều vui, làm việc đến đâu là có công.
Hiến tổ (Thiệu Trị) thường bảo đại thần là Trương Đăng Quế rằng: "hiện nay tướng súy duy có Công Nhàn và Nguyễn Lương Nhàn mà thôi". Tướng Nguyễn Tri Phương cũng khen Công Nhàn dùng binh phảng phất với tướng Đoàn Công Sách, thực là dũng tướng một thời.


II. Thông tin thêm:
-Kênh Vĩnh An:
Theo sách Đại Nam thực lục chính biên (phần 9), thì kênh Vĩnh An khởi đào từ tháng 10 (âm lịch) năm 1843 đến tháng 4 (âm lịch) năm sau (1844) thì xong.
Con kênh nối từ sông Tiền (tại Tân Châu) đến sông Hậu (tại Châu Đốc) do nhân dân ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên cùng góp sức đào, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn. Vì lẽ đó, lúc ban đầu con kênh được mang tên Vĩnh An Hà. Sau này kênh còn có các tên khác là: Long An Hà, Tân Châu Hà, Kênh Vĩnh An, Kênh Cũ.

Và cũng vì dòng kênh đã đem lại lợi ích nhiều mặt: quốc phòng, kinh tế, thủy lợi, giao thông và phục vụ dân sinh; nên sau này để tỏ lòng biết ơn, người ta đã đặt tên hai con đường bên bờ kênh là Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn.

Tuy nhiên, lần hồi kênh cạn dần vì phù sa lắng đọng, nhất là chỗ giáp nước tại vàm kênh (Châu Giang, Châu Đốc). Đến khi người Pháp cho đào thêm Kênh Xáng sâu rộng hơn vào năm 1914, thì kênh Vĩnh An mất hẳn vai trò quan trọng.

Trải thời gian, con kênh càng bị bồi lấp và ô nhiễm nặng, theo trang Thông tin thị xã Tân Châu thì ngày 10 tháng 8 năm 2009, chính quyền địa phương đã tổ chức lễ động thổ, khởi công công trình san lắp kênh Vĩnh An (đoạn thị trấn Tân Châu), hình thành cụm tuyến dân cư ven hai đường Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn.

-Bị chê trách:
Việc Nguyễn Công Nhàn bỏ thành Mỹ Tho để đào thoát, bị nhiều người chê trách. Tương truyền, nhà thơ Học Lạc đã làm bài thơ sau:
Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn
Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan
Giặc tới Bến Tranh run lập cập
Tàu vô Cửa Tiểu chạy bò càng.
Mưu thần trước biết ngang sông chắn
Kế giữ sau toan đóng củi hàng.
Thất thủ muốn liều cho giữ tiết,
Ngặt vì con, vợ bận chưa an.

Dù vậy như trên đã nói, Nguyễn Công Nhàn vẫn được xem là người có công giữ gìn bờ cõi, là người chủ xướng việc đào kênh Long An Hà đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Hiện ở thị xã Tân Châu, có con đường mang tên ông.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
Chú thích:
[1] Đại Nam thực lục chính biên (tập 6, phần chép về Nguyễn Công Trứ) kể chi tiết:
Công Trứ trước làm chức tham tán cầm quân, Công Nhàn xuất thân là tì tướng, nay lại ở địa vị trên, Công Trứ vì thế bất bình. Công Nhàn biết tâm trạng ấy, ỷ chức bèn hại ngầm Công Trứ. Nhân bắt được đội trưởng đồn Chu Giang là Mai Văn Thạch tự tiện hộ tống 4 chiếc thuyền buôn lậu. Công Nhàn và Nghĩa Phương cùng tra hỏi rồi tâu lên rằng Công Trứ phái người đi dò thăm ở xứ Trấn Tây, mua riêng tê giác và đậu khấu. Vua sai Tham tri bộ Lễ Trần Ngọc Giao và Cấp sự trung Đặng Kham đi đến ngay để tra xét. Biết hết được tình trạng Công Nhàn vu cáo để buộc tội, Ngọc Giao dâng án lên, Nghĩa Phương và Công Nhàn vì tội vu cáo bị xử phạt trượng, phát lưu (tr. 611-612).

Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện. Nhà xuất bản Văn Học, 2004.
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên (phần 9, bản điện tử)
-Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (tập 2). UBND tỉnh An Giang ấn hành năm 2007.

Không có nhận xét nào: