Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Năm, 19 tháng 8, 2010

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh chống Nguyễn (1861-1865

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh chống Nguyễn (1861-1865)

Tạ Văn Phụng (? - 1865), còn có các tên là Bảo Phụng, Lê Duy Phụng, Lê Duy Minh. Ông là người Việt thân Pháp và là thủ lĩnh cuộc nổi dậy (sử cũ thường gọi là "giặc biển") ở Bắc Kỳ (Việt Nam) khởi từ cuối năm 1861 đến cuối năm 1865 thì kết thúc.

Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì lúc bấy giờ Tạ Văn Phụng và cuộc nổi dậy của ông là đáng kể hơn cả. Nó đã khiến triều Tự Đức phải dốc toàn lực để đàn áp bằng binh hùng tướng mạnh. Tính ra từ năm 1861 đến 1865, Tạ Văn Phụng đã làm cho vua quan nhà Nguyễn hao tổn tinh thần và tổn hại biết bao sinh mạng cùng tiền tài mới bắt sống được ông. Còn sử gia Trần Trọng Kim thì cho rằng chính Tạ Văn Phụng là một trong số nguyên nhân đã góp phần làm cho nhà vua phải vội vã sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định giảng hòa với thực dân Pháp [1].

*
Tạ Văn Phụng sinh tại huyện Thọ Xương, thuộc Hà Nội, trong một gia đình theo Thiên Chúa giáo. Trước đây, ông được một giáo sĩ đưa đi nuôi dạy ở nước ngoài, sau lại theo đoàn quân viễn chinh Pháp về đánh Quảng Nam [2]. Đến tháng chạp năm Quý Dậu (1861) thì ông ra Bắc Kỳ tự xưng mình là Lê Duy Minh, thuộc dòng dõi nhà Lê (mạo nhận là hậu duệ vua Lê Trang Tông) để làm cuộc lật đổ nhà Nguyễn.

Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
Tháng 12 năm Quý Dậu, tỉnh Quảng Yên nổi giặc biển. Cố đạo Trường làm chủ mưu giặc, tôn Tạ Văn Phụng làm Minh chúa; Văn Phụng mạo xưng con cháu nhà Lê tên là Lê Duy Minh; bọn tên Ước, tên Độ làm tướng giặc; sau hiệp với các thổ phỉ tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An; lại thông với giặc Cổ phỉ Tàu. Chúng nó tụ hội ở các phần biển châu Tiên Yên phủ Hải Ninh,...mà giặc ấy ngày càng nhiều...(tr. 397).
Theo sử liệu thì chỉ trong thời gian ngắn Tạ Văn Phụng đã chiêu mộ được một đạo quân đông đảo, mà đa phần là những người dân đói khổ lưu vong, cùng nổi dậy tại đất Quảng Yên, rồi kéo nhau đi đánh phá các nơi.

Lo ngại, tháng giêng năm Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức sai Tổng đốc Định An Nguyễn Đình Tân sung chức Hải Yên Kinh lược Đại thần, Nguyễn Tư Giản làm Tham tán quân vụ, nhưng chỉ được ít lâu thì bị cách, vì không làm tròn nhiệm vụ. Lúc bấy giờ, Tạ Văn Phụng đã làm chủ được vùng Hải Ninh (thuộc Quảng Yên).

Tháng 3 (âm lịch) năm ấy, Cai Vàng ở Bắc Ninh cũng lấy danh phù Lê (tôn Lê Duy Uẩn làm minh chủ) để làm cuộc nổi dậy. Sau đó, Tạ Văn Phụng và Cai Vàng liền hợp tác với nhau để tăng thanh thế.

Tháng 5 (âm lịch), sau khi đã đánh chiếm phủ Hải Ninh, Tạ Văn Phụng bèn cho quân bao vây và uy hiếp thành tỉnh Hải Dương. Theo sách Lịch sử Việt Nam (1427-1858), thì trong khoảng thời gian này, Tạ Văn Phụng có cử người vào Nam Kỳ nhờ tướng Bonard trợ lực, với lời hứa hẹn rằng sẽ lập một vương quốc Công giáo dưới quyền Pháp bảo hộ sau khi đánh đổ được nhà Nguyễn. Nhưng vì trong ấy phong trào kháng chiến đang tăng mạnh, và việc hòa ước với triều đình Huế cũng sắp xong, cho nên viên tướng này đã không thuận [3].

Nhận tin báo nguy, vua Tự Đức liền cử Thượng thư bộ Hộ Trương Quốc Dụng làm Thống đốc Hải An quân vụ Đại thần, Thị lang bộ Hộ Phan Tam Tỉnh làm Hộ lý tổng đốc, Chưởng vệ Đặng Hạnh, Lê Xuân đều sung chức Đề đốc, rồi đem lính ở Huế và ở Thanh Nghệ đi đánh quân Tạ Văn Phụng. Tiếp theo, nhà vua lại điều thêm Kinh lý đại thần Đào Trí đang làm nhiệm vụ ở Trung Kỳ ra làm Tham tán quân thứ Hải Yên.

Tháng 6 (âm lịch), nhà vua lại truyền cho Nguyễn Bá Nghi từ quân thứ Bình Thuận về lãnh chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên.

Tháng 7 (âm lịch), các tướng là Trương Quốc Dụng, Đào Trí, Phan Tham Tĩnh từ Hưng Yên dẫn quân qua lấy lại được phủ Bình Giang và giải vây cho tỉnh thành Hải Dương.

Tháng 11 (âm lịch), đạo quân thứ tỉnh Đông (Hải Dương) lại đụng độ với quân Tạ Văn Phụng tại phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn (đều thuộc tỉnh Hải Dương). Quân triều thắng trận liền kéo thẳng đến tỉnh thành Quảng Yên, đuổi quân Tạ Văn Phụng chạy ra Đồ Sơn, Cát Bà.

Tháng 3 năm Quý Hợi (1863), Phó đề đốc Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên Quang và bắt sống được Lê Duy Uẩn (minh chủ của quân Cai Vàng).

Tháng 5 (âm lịch) năm ấy, vua Tự Đức điều động Nguyễn Tri Phương sang làm Tổng thống Hải Yên quân vụ, đổi Trương Quốc Dụng làm Hiệp thống để cùng hiệp lực đi đánh dẹp. Ngay sau đó, Hải Yên thủy đạo Thống chế Lê Quang Tiến đánh đuổi được quân Tạ Văn Phụng tại tổng Hà Nam thuộc tỉnh Quảng Yên.

Nếu không bị bão, biết đâu Việt Nam có thêm một ông vua họ Tạ
Sau lần thua trên, tháng 9 (âm lịch), Tạ Văn Phụng quyết định thay đổi chiến lược. Ông cho tập hợp toàn bộ lực lượng lại, gồm khoảng 500 chiến thuyền, từ Cát Bà và Đồ Sơn tiến thẳng vào kinh đô Huế. Theo Phạm Văn Sơn thì Tạ Văn Phụng cho rằng quân lực của triều đình đã chuyển hết ra Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Ở đấy quân đơn tướng ít mà bị đánh úp dễ bị mất như chơi. Nhưng chẳng may kế hoạch này không thành vì binh thuyền của Phụng bị bão tan vỡ gần hết [4].

Đề đốc Lê Quang Tiến và Tuần phủ Bùi Huy Phan bắt được tin ấy vội đem quân ra định tiêu diệt nốt, không ngờ quân của Tạ Văn Phụng tuy không còn khả năng tấn công Huế, nhưng vẫn còn đủ sức đánh tập hậu, khiến quân triều bị thua đậm. Thất bại, cả hai võ quan trên đều nhảy xuống biển tự tận.

Tháng 6 năm Giáp Tý (1864), đạo quân thứ Hải Yên lại tổ chức tấn công quân Tạ Văn Phụng ở tại La Khê, tổng Hà Bắc (thuộc huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, tỉnh Quảng Yên). Lần này, quân triều bị thua to, biền binh bị thương và thất lạc rất nhiều. Các tướng nhà Nguyễn là Hiệp thống Trương Quốc Dụng, Tán lý Phạm Văn Khuê, Tán tương Trần Huy Sách đều tử trận. Riêng Chưởng vệ Hồ Thiện bị bắt sống, nhưng sau đó cũng bị giết chết. Nhận được tin đại bại, vua Tự Đức liền sai người đi "thuê tàu khách đánh giặc" (tức tàu của hải quân nhà Thanh).

Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
...Tháng 7, Ngài (Tự Đức) sai Thị lang bộ Hộ Trịnh Lý Hanh qua quân thứ Hải Yên, hội đồng với quan quân thứ thuê tàu khách đánh giặc [13].
Tháng 4 năm Ất Sửu (1865), Tạ Văn Phụng đem hơn 300 chiến thuyền từ cù lao Phò Long, quần đảo Cát Bà, chia làm ba đạo đến quấy phá ở mạn Hải Dương. Tướng Nguyễn Tri Phương khiến Nguyễn Văn Vĩ đốc thuyền đến đánh, bắt sống và chém nhiều quân nổi dậy. Cũng trong tháng này, quân Tạ Văn Phụng lại tràn vào sông Võ Định xứ Lang Thâm thuộc tỉnh Hải Dương, dùng kế hỏa công đánh tan tác đạo quân thủy ở nơi sông Cấm, bắt sống được Thống chế Nguyễn Doãn rồi giết chết. Hay tin, tướng Nguyễn Tri Phương liền đốc lính bộ tới đánh đuổi (tr. 423).

Tháng 5 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Tạ Văn Phụng lại đem quân tấn công đồn Quỳnh Lâu và An Trì thuộc Quảng Yên. Tán lý Đặng Trần Chuyên đánh đuổi được. Đốc binh là Ông Ích Khiêm lại đánh được quân nổi dậy tại khe Vị Dương . Đề đốc Mai Thiện chia quân đến các xứ Hạ Đoan, Lang Thâm, đánh hơn 10 trận lớn nhỏ đều thắng.

Sau khi bị đánh thua ở nhiều nơi, Tạ Văn Phụng buộc phải cho quân lui về giữ Hải Ninh. Đến tháng 6 (âm lịch) năm ấy, quân Tạ Văn Phụng bị các tướng là Nguyễn Tri Phương, Phạm Chi Hương, Nguyễn Văn Vĩ, Mai Thiện cầm quân thủy bộ đến vây đánh.

Tiếp đó (tháng 7 âm lịch), khoảng trăm chiếc tàu của Tạ Văn Phụng đang neo đậu tại sông Thác Hàn ngoài thành Hải Ninh, cũng bị Đốc binh Ông Ích Khiêm và Phó vệ úy Phan Đình Thảo hiệp đồng với quan nhà Thanh ở Khâm Châu là Lý Văn Yên đến đánh. Trận diễn ra vào buổi tối, đến sáng thì quân triều lấy lại được thành Hải Ninh, đuổi đoàn tàu chiến (ước chừng 70, 80 chiếc) của quân nổi dậy chạy đến vũng Ngọc Sơn (Đồ Sơn)...Bị truy đuổi, Tạ Văn Phụng cùng tùy tướng tên là Ước (không rõ họ) lại đem đoàn thuyền chạy vào tới vùng biển Thanh Hóa, Nghệ An.

Bị bắt và bị xử chết
Tháng 8 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), đạo quân thứ Hải Yên do tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy lại truy đuổi một đội tàu của Tạ Văn Phụng tại sông Gia Luận thuộc xứ Hà Lai. Tại đây, ông sai Tri huyện Nghiêu Phong là Nguyễn Hữu Thuận đem binh thuyền đi thăm dò địa phận sông, thì chợt gặp thuyền Đô thống Hậu quân của quân nổi dậy là Phạm Văn Khương và Oánh (không rõ họ) nên hô quân bắt được. Sau đó, ông Oánh bị giết ngay, còn ông Khương thì bị nhốt cũi giải về Kinh đô Huế.

Sang tháng sau (tháng 9 âm lịch), thì đoàn thuyền Tạ Văn Phụng bị "bang thuyền nước Tàu" đánh tan ở ngoài Hải Ninh và hòn Thảo Dự ở Quảng Bình. Đến lúc ấy quân nổi dậy, người thì phải bắt, người thì chạy trốn được. Phần Tạ Văn Phụng và tùy tướng tên là Ước, sau đó cũng bị bắt sống giải về Huế.

Tháng 10 năm 1865, Tạ Văn Phụng bị xử lăng trì.

Vấn đề liên quan:
Có một số tác giả cho rằng Tạ Văn Phụng đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy có qui mô rộng lớn, chống lại nhà Nguyễn, thu hút đông đảo nhân dân đói khổ lúc bấy giờ, và đã làm cho triều đình Huế phải lao đao lắm mới dẹp yên được. Nhưng xu hướng hòa thân với Pháp để lợi dụng Pháp, cũng như việc liên kết với quân Tàu ô, quân khách (tàn dư của các cuộc chống Thanh, nhưng đã biến chất. Sử cũ thường gọi họ là: "giặc khách") đã lái cuộc nổi dậy đi chệch hướng, làm mất dần sự ủng hộ của nhân dân Việt.

Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng Tạ Văn Phụng không phải là người chủ xướng việc liên kết mà chỉ là "con bài" của thực dân Pháp, với sự tiếp tay của các cố đạo. Bởi các phong trào kháng Pháp ở Nam Kỳ lúc bấy giờ đang dâng cao, khiến họ phải nghĩ tới một giải pháp chánh trị [5].

Theo sử liệu dẫn trong sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười, thì Tạ Văn Phụng là một người Việt Nam không rõ nguồn gốc, nhưng đã được rửa tội và nuôi dưỡng trong trụ sở Giáo hội tại Pinang. Năm 1854, Tạ Văn Phụng tự xưng là hậu duệ nhà Lê, hô hào một cuộc nổi dậy ở Quảng Yên. Nhưng sau đó, nghe lời khuyên của giám mục Retord, ông ngưng hoạt động và ẩn trốn ở Hồng Kông.

Sau khi tàu liên quân Pháp-Tây Ban Nha nả đại bác vào Đà Nẵng (1 tháng 9 năm 1858), giám mục Retord liền nảy ra ý định tạo ra một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của Pháp, và ông đã nghĩ ngay đến Tạ Văn Phụng. Tạ Văn Phụng nhận lời trở lại Bắc Kỳ vào giữa năm 1861, rồi phất cờ phù Lê và chọn cố đạo Trường [6] làm mưu sĩ. Chỉ trong vài tuần lễ, Tạ Văn Phụng chiêu mộ được một đạo quân có hơn hai vạn.

Đầu năm 1862, trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc Kỳ, tiếp xúc với Tạ Văn Phụng với mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến, nhằm gây áp lực với vua Tự Đức phải nhận ký hòa ước thua thiệt với người Pháp vào ngày 5 tháng 6 năm 1862 (Hòa ước Nhâm Tuất). Đến đây kể như số phận của "con bài Tạ Văn Phụng" đã kết thúc, vì thực dân Pháp đã đạt được thắng lợi trong giải pháp chính trị. Và bất kể tương lai cá nhân của Tạ Văn Phụng, sau khi làm tròn nhiệm vụ của mình, Ch. Duval đã rời đất Bắc ngày 17 tháng 7 năm 1863[7].

Ý đồ biến Tạ Văn Phụng thành một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của Pháp, cũng đã được linh mục Theurel đề cập đến. Ông viết:
Nếu các nhóm phản loạn đoàn kết, chúng có hy vọng thành công. Với ông vua mới này, con cái của chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hòa bình tôn giáo, và dân chúng sẽ theo vua chúng mà theo đạo. Nhưng y chỉ là một tên giả mạo [8].
Trong bài viết, tác giả Charile Nguyễn cũng cho biết rằng Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang. Năm 1858, Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Sau đó, gián điệp Duval được cử sang Việt Nam với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo. Chính Duval đã đi Macao mua vũ khí và giúp Văn Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân, rồi lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê mà dấy binh [9].

Chú thích:
[1] Trần Trọng Kim viết: Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có Nguyễn Văn Thịnh (tục gọi Cai tổng Vàng), quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam Kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lấy làm lo sợ lắm, bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa (Việt Nam sử lược, tr 494).
Còn Phạm Văn Sơn thì kèm theo lời bình như sau: Các vụ loạn ở Bắc Kỳ (trong đó đáng kể hơn cả là vụ Tạ Văn Phụng), có một điều vô cùng tai hại là vì nó mà triều đình Tự Đức phải vội vã ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với Pháp ở Nam Kỳ để rảnh tay đối phó với Bắc Kỳ. Tự Đức nghĩ rằng có ký với Pháp chăng nữa thì rồi đây lại tìn cơ khôi phục những tỉnh đã nhượng. Bắc Kỳ bấy giờ có lẽ ở trong một tình trạng khẩn trương hơn Nam Kỳ bội phần? Việc Tự Đức điều động tướng Nguyễn Tri Phương và nhiều đại tướng khác ra Bắc Kỳ bấy giờ cũng đủ hiểu (Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 146, 149 và 162).
[2] Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam chép Tạ Văn Phụng theo tướng Charles Rigault de Genouilly về đánh Quảng Nam. Sách Việt Nam sử lược (tr. 502) lại ghi là theo tướng Léonard Charner. Xét thấy, viên tướng này không mang quân đánh Quảng Nam mà là đánh Gia Định (trận Đại đồn Chí Hòa).
[3] Theo Lịch sử Việt Nam (1427-1858, tr. 84). Việt Nam sử lược (tr. 503) chép việc này ở vào tháng 3 năm Quý Hợi (1863), tức khi ấy Hòa ước Nhâm Tuất 1862 đã ký kết xong. Sử gia Phạm Văn Sơn cũng không ghi rõ khi đề cập đến vấn đề này. Trích: Trước năm 1863, Tạ Văn Phụng thấy quân triều dốc toàn lực để đối phó với mình nên cho người đi cầu viện soái phủ Nam Kỳ. Nhưng vì lúc này Pháp quân không dồi dào để chia xẻ ra Bắc, nghĩa quân lại quấy phá nhiều nơi, và việc hòa giải giữa Pháp và triều đình Tự Đức sắp xong, nên việc cầu viện của Phụng bị bỏ rơi. Sử gia tu sĩ A. Launay rất than tiếc vì việc này. Còn P. Cultru thì cho rằng bấy giờ Pháp có ý nhường đất Bắc cho Tây Ban Nha nên khước từ. Theo ý chúng tôi, Pháp không có chủ trương như thế, họ chưa ngó đến Bắc Kỳ bởi họ chưa thanh toán được hết đất đai ở Nam Kỳ mà thôi (tr. 148).
[4] Việt sử tân biên, tr. 148-149. Quốc triều sử toát yếu chép đoàn thuyền chiến của Tạ Văn Phụng bị bão đến hai lần. Một tướng thân cận của Tạ Văn Phụng tên là Độ (không rõ họ) cũng đã chết trong cuộc hành quân này (tr. 409).

[5]Cùng quan điểm này có nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt Nam. Trích: Cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng do thực dân Pháp giật dây thông qua ban tày của các gián điệp đội lốt thầy tu, cốt để triều đình Huế bối rối vì phải lo đối phó với phong trào ngoài Bắc mà sơ hở và nhượng bộ chúng trong Nam (Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2006, tr.30).
[6] Theo tài liệu này thì cố đạo Trường không phải là người Việt, mà là linh mục Le Grand de Liraye. Sau (ngày 14 tháng 10 năm 1866), cũng chính ông là người đã cùng đi với Paulin Vial với tư cách là thông ngôn ra Huế để bức bách vua Tự Đức nhượng luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho Pháp.
[7] Lược theo sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười do Nguyễn Hữu Hiếu chủ biên. Nhà xuất bản Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay hợp tác ấn hành.
[8] Theo Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn (1883-1945), Tập 1, Houston, 1999, tr. 147.
[9] Charlie Nguyễn, Hồ sơ tội ác...Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi thế kỷ 19. Bản điện tử.

Giải thích một số địa danh có ở trong bài:
-Quảng Yên là một tỉnh cũ ở phía đông Bắc Bộ, được thành lập năm 1831 dưới thời Minh Mạng. Sau này ghép với Hải Ninh thành Quảng Ninh.
-Định An hay Định Yên gồm Nam Định và Hưng Yên.
-Hải Yên hay Hải An gồm Hải Dương, Quảng Yên.
-Quỳnh Lâu và An Trì (Yên Trì) thuộc tổng Hà Bắc, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh).
-Vị Dương thuộc tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông.
-Các tổng Hạ Đoàn, Lang Thâm của huyện An Dương, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương thời nhà Nguyễn; huyện An Dương xưa nay là các vùng đất thuộc quận Lê Chân, quận Ngô Quyền và An Hải của Hải Phòng.
-Hà Lai thuộc huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên.
-Tổng Hà Nam, thuộc huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, tỉnh Quảng Yên).
-Đảo Phù Long là một đảo lớn kéo dài hơn 60 dặm ở giữa biển, thời Nguyễn thuộc tổng Hà Liên, huyện Hoa Phong (Nghiêu Phong) tỉnh Quảng Yên.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn

Tài liệu tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu. Nhà xuất bản Văn Học, 2002.
-Cao Xuân Dục (tổng tài), Đại Nam dư địa chí ước biên. Nhà xuất bản Văn Học, 2003.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt. Sài Gòn, 1968.
-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 5, tập thượng). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1962.
-Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1427-1858), Quyển 3, Tập 1, Phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.

Không có nhận xét nào: