Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Hai, 23 tháng 8, 2010

Giới thiệu nhà thơ tiền chiến Huyền Kiêu

Huyền Kiêu tên thật: Bùi Lão Kiều (1915 - 1995), bút hiệu: Huyền Kiêu (do Kiều mà ra), nguyên quán ở tỉnh Hà Đông (cũ), cư ngụ ở Hà Nội.
Vào những năm 40 của thế kỷ 20, ông viết văn, làm thơ, và cộng tác với các báo ở Hà Nội, và trở nên nổi tiếng .
Trong cuộc chiến tranh chống Pháp (1945-1954), ông tản cư ra chiến khu, công tác ở chi hội Văn nghệ Liên khu III.
Sau hiệp định Genève (1954), ông hồi cư về Hà Nội, công tác ở tạp chí Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho đến năm 1975.
Sau sự kiện 30 thàng 4 năm 19 75, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh và mất ở nơi đó vào ngày 8 tháng 1 năm 1995 (Ất Mão), thọ 80 tuổi.

Tác phẩm của Huyền Kiêu, gồm:
- Hồ Chí Minh, tinh hoa dân tộc (trường ca, 1944).
- Sang xuân (thơ, 1960)
- Mùa cày (thơ, 1965)
- Bầu trời (thơ, 1976)
Ngoài ra, ông còn dịch tiểu thuyết Gió Đông, gió Tây của Pearl S. Buck (NXB Hàn Mặc-1945; 1964 in lại).

***
Lúc ở Hà Nội, Huyền Kiêu với thi sĩ Đinh Hùng vốn là bạn thân từ thuở nhỏ. Cho nên khi bắt đầu gia nhập làng báo, làng văn; nhờ người bạn này, mà Huyền Kiêu sớm trở thành bạn thân thiết của Vũ Hoàng Chương, Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách….

Năm 1954, Đinh Hùng vào sống ở Sài Gòn, làm báo và phụ trách chương trình Tao Đàn trên Đài phát thanh Sài Gòn. Trong một lần trò chuyện với bạn (Quốc Nam) về những văn nhân thời tiền chiến, thi sĩ có nhắc đến hai bài thơ của Huyền Kiêu, đó là Tình sầu và Tương biệt dạ. Và theo Đinh Hùng, thì câu thơ đầu của bài Tương biệt dạ, là của nhà văn Thạch Lam.

Lược lại lời kể của thi sĩ Đinh Hùng:
Bên Hồ Tây, một đêm chớm thu năm Canh Thìn (1940), chúng tôi cùng kéo nhau ra vườn của Thạch Lam, ngồi nghe cá quẫy, nhìn trăng vời vợi…Một lát sau, Thế Lữ đã về nhà gần đấy rồi, quanh quẩn chỉ còn lại Huyền Kiêu, Thạch Lam và tôi thôi.

Đang buồn vì đôi bạn thân là Khái Hưng và Nhất Linh sắp sửa xa nhau, thì bỗng dưng Thạch Lam khơi mào bằng câu thơ: “Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề ...”, rồi xui Huyền Kiêu hãy làm tiếp đi!...Huyền Kiêu và tôi đều ngơ ngác, vì không hiểu sao hôm nay Thạch Lam lại nhiều ... thi hứng đến thế.

Suy nghĩ một hồi lâu, Huyền Kiêu nói:
-Tôi thử đọc cho các anh nghe. Bài thơ nhan đề "Tương biệt dạ". Hay, dở tùy nghi Thạch Lam và Đinh Hùng giúp sửa lại. Và anh khe khẽ ngâm sau khi giục Thạch Lam vào nhà lấy giấy bút ghi tốc ký.

Vậy là bài thơ "Tương biệt dạ", với đầy hình ảnh của Khái Hưng cùng Nhất Linh, đã được chính Thạch Lam mở đầu và do Huyền Kiêu sáng tác. Tình bạn thơ văn giữa chúng tôi thắm thiết là thế đó...


Chỉ mấy tháng sau, bài thơ trên được nhà xuất bản Đời Nay của Tự Lực văn đoàn tuyển in trong Giai Phẩm Đời Nay Xuân 1941, cùng với bài thơ "Bài ca man rợ" của Đinh Hùng. Đặc biệt, bài "Tương biệt dạ" còn được họa sĩ Đông Sơn (tức Nhất Linh) vẽ tranh minh họa.

Còn bài thơ "Tình sầu" của ông cũng rất nổi tiếng. Trước 1975, nhà văn Viên Linh đã dùng câu Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi, làm nhan đề cho quyển tiểu thuyết của mình. Gần đây hơn, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng đã dùng hai chữ Hạ đỏ làm nhan đề sách và còn trích dẫn mấy câu thơ đề bên ở trong.

Nhìn chung, những bài thơ hay của Huyền Kiêu đều là thơ buồn. Ở đây, xin giới thiệu lại hai bài thơ đã từng được thi sĩ Đinh Hùng và giới yêu thơ khen ngợi:

Tình sầu

Xuân hồng có chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội.

Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối…

Thu xám cũng chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi…

Đông xám lại chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối…
1938

Tương biệt dạ

Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề
Ý sầu lên vụt đến sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Vương vấn người đi với kẻ về.

Ngồi suốt đêm trường chẳng nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vần trăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ?
Có giống như mình lưu luyến chăng?

Đã tắt lò hương, lặng phím đàn
Thư phòng sắp sằn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải vương theo mấy dặm buồn.

Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng nhiên sầu
Trăng mùa xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi. Anh biết đâu?

Mưa trên quán rượu

60 năm về trước
Chàng Verlaine râu ria
Lê từ quán rượu nọ
Sang lầu giang hồ kia

Lửa bừng nung chí nghĩ
U uất nặng bên lòng
Đi tìm nghĩa sự sống
Chỉ thấy hoài hư không

Say vì buồn vô hạn
Buồn vô hạn vì say
Đàn bà và rượu ngọt
Không làm quên đắng cay

Cầu nguyện rồi khóc lóc
Anh mang tình đi đâu
Qua mười phương xa lạ
Vẫn gặp một u sầu

Đêm nay trong quán lạnh
Sụt sùi trời gió mưa
Có một chàng trai trẻ
Đang sống đời anh xưa.
1939

Bài Tình đầu, Tương Biệt dạ chép theo Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, do Nguyễn Hùng Trương (tức Giám đốc nhà sách Khai Trí, Sài Gòn tuyển chọn, Nxb Thanh Niên, 1998, tr. 144-145). Bài Mưa trên quán rượu do họa sĩ Suối Hoa - con gái của nhà thơ- cung cấp bản thảo.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Không có nhận xét nào: