Cuộc nổi dậy Ba Nhàn, Tiền Bột (bắt đầu: 1833, kết thúc: 1843), là cuộc đấu tranh chống triều Nguyễn, do Nguyễn Văn Nhàn và Lê Văn Bột làm đồng thủ lĩnh, khởi phát từ Sơn Tây vào đầu thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Đây không phải là một là một đám "giặc cỏ" tầm thường như vua quan nhà Nguyễn quen gọi, cũng không phải là một bộ phận nhỏ bé của cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương, và sau nữa là của Nông Văn Vân, mà là một cuộc nổi dậy có tầm cỡ trong những năm 30 của thế kỷ 19, mà bấy lâu nay chưa được nhiều người chú ý.
Việc triều đình Minh Mạng lấy câu "Dẹp yên bọn giặc ở Sơn Tây" làm đề thơ trong kỳ thi Hội năm Giáp Ngọ (1834) càng chứng tỏ điều đó.
*
Chống áp bức bất công, mưu tìm một cuộc sống ấm no và tốt đẹp hơn, đó là nguyên nhân chính đã làm bùng phát nhiều cuộc nổi dậy ở thời đầu nhà Nguyễn. Trong số đó có cuộc nổi dậy của Ba Nhàn, Tiền Bột ở tỉnh Sơn Tây cũ (nay thuộc Hà Nội).
Ba Nhàn tên đầy đủ là Nguyễn Văn Nhàn (hoặc Nhờn, khi khởi binh chống nhà Nguyễn được người dân gọi là Quận Nhờn), là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân nghèo ở xóm Giếng, xã Dẫn Tự, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Dẫn Tự, thuộc xã Tân Cương, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú) [1].
Tục truyền, ông là người có sức vóc to khỏe, giỏi võ nghệ; và là anh em kết nghĩa với Tiền Bột (tên đầy đủ là Lê Văn Bột, còn được gọi là Bọt, không rõ thân thế).
Những năm trước khi cuộc nổi dậy bùng nổ (1833), với khẩu hiệu "lấy của nhà giàu, chia cho dân nghèo", Ba Nhàn và Tiền Bột đứng ra ngầm vận động giới dân nghèo cùng nổi dậy chống áp bức, được rất nhiều người nghe theo.
Lập căn cứ Rừng Khâm
Buổi đầu, Ba Nhàn và Tiền Bột dẫn mấy ngàn người dân cùng chí hướng lên chân núi Tam Đảo vào Rừng Khâm, lập căn cứ huấn luyện quân và cất chứa lương thực.
Thời nhà Nguyễn, Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc Việt Nam, ở địa giới hai huyện là Tam Dương của Sơn Tây và Đại Từ của Thái Nguyên (nay nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang).
Còn Rừng Khâm, lúc bấy giờ là một khu rừng già rộng khoảng 7 hecta, nằm sâu trong thôn Bàn Long, thuộc xã Minh Quang (thời Nguyễn thuộc Thái Nguyên, nay thuộc huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc). Toàn bộ khu rừng nằm tựa vào chân núi Tam Đảo ở phía bắc và ngăn cách với bên ngoài bằng suối Rừng Khâm ở phía tây và khe Rừng Khâm ở phía đông.
Tuy nhiên để chỗ canh phòng bảo vệ căn cứ, Ba Nhàn và Tiền Bột còn cho xây dựng thêm những lũy đá, như ở Dốc Chùa (phía tây bắc Rừng Khâm), Khe Trấn (phía đông bắc Rừng Khâm), Án Tiền (trên Rừng Hin), Án Hậu (trên núi Quần Ngựa)...
Mặc dù cố giữ bí mật nơi trú đóng, nhưng cuối cùng các quan quân địa phương vẫn dò la được.
Trích bản tâu của án sát án sát Sơn Tây Hồ Bảo Định vào tháng 3 năm Quý Tỵ (1833):
...Nghe tin tên phỉ Bột giấu quân ở trong rừng rậm,...ẩn nấp nơi thung lũng, không có nơi nào là không có, chuyện vào thổ dân...(Bắc Kỳ tiễu phỉ, quyển 2)
Trong quyển Bản triều bạn nghịch liệt truyện, tác giả là Kiều Oánh Mậu viết:
...Ba Nhàn cùng đồng đảng lẻn vào địa phận huyện Tam Dương tống tiền, cướp bóc, thường ở trong Rừng Khâm, dưới chân núi Tam Đảo, xây cất nhà kho, tích trữ rất nhiều....
Khởi binh chống Nguyễn
Sau một thời gian chuẩn bị, khoảng tháng 3 (âm lịch) năm 1883, Ba Nhàn và Tiền Bột nhận lời hội quân với thủ lĩnh Lê Duy Lương ở Hòa Bình, để đi vây đánh thành trấn Hưng Hóa.
Đến khi vua Minh Mạng phái tổng đốc An Tĩnh Tạ Quang Cự cùng tướng lĩnh khác mang đại quân tới cứu, thì hai ông mới cho thu quân về. Kể từ đó, từ căn cứ Rừng Khâm, Ba Nhàn và Tiền Bột lần lượt mang năm, sáu ngàn quân rầm rộ đi đánh phá các nơi, như: Tam Dương, Yên Lạc, Yên Lãng (nay thuộc Đại Từ), Vĩnh Tường, Lập Thạch,...để hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương.
Hốt hoảng, án sát Hồ Bảo Định gửi tấu sớ khẩn về triều, trong đó có câu:
…Bọn giặc thì lan tràn, dân tình thì bất trắc. Thổ dân miền núi theo quan binh thì ít, theo giặc thì nhiều, cho nên đảng giặc ngày càng đông (Bắc Kỳ tiểu phỉ, quyển 3).
Tuy đạt được một số thắng lợi, nhưng lực lượng nổi dậy cũng phải hao tổn nhiều, khi đông đảo quân triều từ Hà Nội, Sơn Tây kéo nhau lên bao vây và đánh phá. Mưu tính việc lâu dài, Ba Nhàn và Tiền Bột bàn nhau mở vòng vây rồi đưa quân lên lập căn cứ mới ở Vụ Quang (nay thuộc huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc), để không bị cô lập vì lúc này lực lượng của Lê Duy Lương đã suy yếu (tháng 6 âm lịch 1883, Lê Duy Dương bị bắt), và để tiện bề liên kết với cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân ở châu Bảo Lạc (lúc bấy giờ thuộc Tuyên Quang).
Sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện, chép:
...Từ đó, Nhàn đem đồng đảng trốn xa, lên những rừng núi Phù Ninh, Sơn Dương để làm sào huyệt…(làm) quan quân (lại) mệt nhọc về phòng ngự và tiễu trừ...
Trong một chỉ dụ gửi tướng Lê Văn Đức, vua Minh Mạng ra lệnh:
Giặc ở Sơn Tây bị quan quân Hà Nội, Sơn Tây đánh đuổi, thế tất phải đến Bảo Lạc nhập đảng. Ngươi nên nhân nước to, ngoài đồng không có gì ăn, giặc đang cùng khốn mà tìm cách đón đánh...
Lập căn cứ mới ở Vụ Quang
Giữa năm 1835, Ba Nhàn và Tiền Bột rời bỏ căn cứ Rừng Khâm, đến xây dựng căn cứ mới ở Vụ Quang (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) [2].
Liên kết với thủ lĩnh Nông Vân Vân nhằm phân tán lực lượng quân triều, từ căn cứ Vụ Quang, Ba Nhàn và Tiền Nột mang quân đi tấn công huyện đường Phù Ninh (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), đánh một trận ác liệt với quân triều ở xã Bổng Châu, thuộc huyện miền núi Thanh Ba (nay thuộc tỉnh Phú Thọ).
Sau đó, hai ông quyết định đưa quân lên Tuyên Quang, nhưng không thực hiện được. Sách Bắc Kỳ tiểu phỉ (quyển 50) cho biết: Khoảng cuối tháng 5 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1834), Ba Nhàn và Tiền Bột dẫn hàng ngàn quân với đầy đủ súng điểu thương, khí giới, cờ trống đi qua các huyện Lập Thạch, Phù Ninh, Thanh Ba, Hạ Hòa...và ngày 8 tháng 6 năm Giáp Ngọ thì đến đồn Đại Đồng ở châu Thu (tức Thu Châu, nay là vùng đất thuộc huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái). Nhưng do một bất trắc nào đó, không thấy người của (Nông Văn) Vân đến đón như hẹn.
Còn đang lúng túng, ngày 14 tháng 6 năm đó, đông đảo quân triều hay tin kéo nhau đến vây đánh. Thua trận, Ba Nhàn và Tiền Bột phải cho quân tản vào rừng sâu và lùi dần về phía Sơn Tây.
Nôn nóng, đích thân Tiền Bột lên Bảo Lạc gặp Nông Văn Vân, lập ra một kế hoạch mới. Trích bản tâu của tướng Nguyễn Công Trứ:
...Tên giặc Tiền Bột sau lần thua nặng, lui về Bình Tuyền bèn tìm đường lên Bảo Lạc và gặp (Nông Văn) Vân... Từ Bảo Lạc, Tiền Bột gửi về một bài gỗ, trong đó viết rằng Vân dặn chuẩn bị lực lượng ở tỉnh Sơn (Sơn Tây), đợi đến trung tuần tháng 9 (âm lịch) thì Vân sẽ đánh vỡ tỉnh Tuyên và giặc ở tỉnh Sơn sẽ đồng thời hưởng ứng đánh chiếm tỉnh Sơn (Bắc Kỳ tiễu phỉ, quyển 60).
Tuy nhiên một lần nữa hiệp đồng lại thất bại, vì gần đến ngày hẹn thì đại quân nhà Nguyễn đang rầm rộ tiến lên vùng Việt Bắc, trong đó đội quân chủ lực đánh sẽ vào Vân Trung (Bảo Lạc), đại bản doanh của Nông Văn Vân.
Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Mùi (1835), Nông Văn Vân bị quan quân truy đuổi và sau đó bị chết cháy trong rừng Thẩm Bát. Lúc này, cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương do anh em họ Quách chỉ huy cũng đang dần tàn lụi, Ba Nhàn và Tiền Bột đành phải cho quân ẩn nấp ở vùng rừng núi Lâm Thao và Đoan Hùng.
Đoạn kết
Năm Quý Mão (1843) đời vua Thiệu Trị, sách Quốc triều sử toát yếu chép:
...Tháng 2, tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Nguyễn Đăng Giai tâu rằng: Trong hai phủ Lâm Thao và Đoan Hùng cả thảy 7 huyện, những dân trong rừng rú lâu nay bị tên Nhờn (Nguyễn Văn Nhàn), tên (Nguyễn) Thạch...nạt dỗ, hoặc đưa tiền của, hoặc chứ gian ngụy, thành ra một nơi ổ giặc...Được ít lâu, giặc trốn là Nguyễn Thạch với hai tên đồ đảng tới thú trước cửa quân.
Tháng 3, Nguyễn Thạch bị chánh pháp. Đến tháng 7, giặc trốn ở tỉnh Sơn Tây là Nguyễn Văn Nhờn bị giết. Nhờn là người Hưng Hóa, (thuộc) đảng tên Nông Văn Vân. Khi tên Vân đã thua rồi, Nhờn lại hiệp với tên Thạch, trốn tránh không ở một nơi. Đến bây giờ người tỉnh Sơn Tây mật báo, phái người truy nã bắt được...[10]
Theo sách Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1, tr. 459) thì trong khoảng thời gian này, đồng thủ lĩnh là Lê Văn Bột đã ra đầu thú, nhưng không cho biết số phận của ông rồi ra sao.
Và người soạn cũng không rõ, Lê Văn Bột có phải là Nguyễn Thạch mà Quốc triều sử toát yếu đã chép hay không.
Bùi Thụy Đảo Nguyên, soạn.
Chú thích:
[1] Kiều Oánh Mậu, tác giả quyển Bản triều bạn nghịch liệt truyện, cho rằng Ba Nhàn là người xã Bình Đằng, huyện Bạch Hạc. Quốc triều sử toát yếu (tr. 325) chỉ ghi đơn giản ông là người Hưng Hóa. Tuy nhiên, theo một bản tâu của án sát Sơn Tây Hồ Bảo Định vào cuối tháng 4 năm Quý Tỵ (1833), thì ông là người ở xã Dẫn Tự. Giáo sư Nguyễn Phan Quang đã đi đến để tìm hiểu, thì quả đúng như thế .
[2] Ở Vụ Quang thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, quân nổi dậy trú đóng ở Gò Quan và Gò Mom Hội. Phía trên Gò Nom Hội là một hang động có nhiều ngõ ngách, có thể chứa vài trăm người, nhưng lối vào hang thì kín đáo và chỉ đi lọt một người. Vì hang có nhiều dơi nên gọi là Hang Dơi. Hiện nay vùng sình lầy giữa chân núi và bờ sông đã biến thành làng xóm và ruộng đồng, chỉ còn lại một khu đất trũng gọi là Ao Trời. Trước đây, những lần đào bới để lấy đất đấp đê chống lũ, dân địa phương thường gặp nhiều xương cốt và tiền đồng thời Nguyễn.
Sách tham khảo chính:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu (Tiền biên & Chính biên). Nhà xuất bản Văn Học, 2002.
-Trương Hữu Quýnh (chủ biên)-Phan Đại Doãn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1). Nhà xuất bản giáo dục, 2007.
-Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ 19 (1802-1884). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét