Hình ảnh

Hình ảnh

Chủ Nhật, 5 tháng 9, 2010

Thủ lĩnh Tống Duy Tân

Tống Duy Tân (1837 -1892) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 [1]-1892) trong lịch sử Việt Nam .

Ông là người làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Năm Canh Ngọ (1870), ông đỗ cử nhân, đến năm Ất Hợi (1875), thì đỗ tiến sĩ. Bước đầu, ông được bổ làm Tri huyện, sau làm Đốc học Thanh Hóa rồi Thương biện tỉnh vụ.

Sau tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương, ông cùng với Đinh Công Tráng (người được vua Hàm Nghi và đại thần Tôn Thất Thuyết giao trọng trách tổ chức phong trào chống Pháp ở Hà Tĩnh) thành lập chiến khu Ba Đình.

Những năm 1886-1887, ông đang làm Chánh sứ sơn phòng Quảng Hóa (nay là Quảng Xương-Thanh Hóa), thì được phân công cùng với Cao Điển (có sách ghi là Cao Điền), xây dựng căn cứ Phi Lai (Hà Trung, Thanh Hóa), nhằm hỗ trợ cho chiến khu Ba Đình.

Đầu năm 1887, đông đảo quân Pháp kéo đến tấn công dữ dội. Sau đó, căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ. Các thủ lĩnh là Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt hy sinh; Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát; Trần Xuân Soạn tìm đường sang Trung Quốc, Đinh Công Tráng chạy thoát (nhưng chỉ vài tháng sau thì bị đối phương giết hại)...

Trước tình thế hiểm nghèo này, Tống Duy Tân cho nghĩa quân tìm nơi ẩn náu, còn ông thì đi ra Bắc rồi Trung Quốc để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì Tống Duy Tân đã gặp Tôn Thất Thuyết tại Quảng Đông, và ông đã nghe theo lời vị tướng này trở về Thanh Hóa để tiếp tục công cuộc kháng Pháp [2].

Đầu năm 1889, ông trở lại quê nhà, liên lạc với các thủ lĩnh yêu nước còn sót lại như Cao Điển, Cầm Bá Thước, Tốt Thất Hàn,...Và sau khi tập hợp lại lực lượng, thì ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại Hùng Lĩnh ở thượng nguồn sông Mã (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).

Từ nơi đó, ông cùng hai phụ tá đắc lực là Cầm Bá Thước và Cao Điển, cho nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã; đến phối hợp chiến đấu với Đề Kiều, Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà, với Phan Đình Phùng ở vùng rừng núi Nghệ An-Hà Tĩnh.

Tổ chức của các ông khá quy củ. Mỗi huyện có một cơ binh, lấy tên huyện đặt tên cho đơn vị, ví dụ như Nông Thanh cơ (tức cơ Nông Cống ở Thanh Hóa), Tống Thanh cơ (tức cơ Tống Sơn ở Thanh Hóa),...

Hay tin, ngày 8 tháng 10 năm 1889, quân Pháp từ đồn Nông Cống đi đến dò xét thì chạm súng với nghĩa quân Hùng Lĩnh. Ngày 22 tháng 10, quân Pháp từ Thanh Hóa lại kéo đến tấn công. Sau ngày kịch chiến, Tống Duy Tân cho quân rút về phía Bắc Phố Cát (Thạch Thành). Cuối tháng này, nhờ có những toán quân cũ của tướng Trần Xuân Soạn tìm đến tham gia, nên Tống Duy Tân lại cho quân đẩy mạnh hoạt động trong các huyện Yên Định, Thọ Xuân, Nông Cống. Sau đó, đôi bên còn giao chiến thêm nhiều trận nữa, đáng kể là trận Vạn Lại (Vạn Ninh-Thọ Xuân) ngày 30 tháng 11 và trận Yên Lược (Thọ Xuân) vào ngày 2 tháng 12 cùng năm.

Thấy công cuộc thôn tính nước Việt bị cản trở, thực dân Pháp liền tăng cường lực lượng để dập tắt phong trào do Tống Duy Tân làm thủ lĩnh. Trước lực lượng đối phương đông đảo, lại được trang bị vũ khí mạnh, ông phải cho quân vừa chống đỡ, vừa rút dần lên vùng miền núi ở phía Tây Thanh Hóa.

Trong năm 1890, Tống Duy Tân đã tổ chức tập kịch nhiều trận. Đáng kể hơn cả là trận thắng lớn ở Vân Đồn (Nông Cống) và ở Yên Lãng (Xuân Yên-Thọ Xuân) bên tả ngạn sông Chu vào tháng 3 năm 1890, và trận Thanh Khoái xảy ra vào ngày 29 tháng 5 năm 1890. Bị thiệt hại đáng kể, quân Pháp bèn tập trung lực lượng mở cuộc truy quét quy mô nhằm tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh.

Kể từ đây trở đi, Lực lượng của Tống Duy Tân bước vào thời kỳ chiến đấy gay go và gian khổ hơn. Nhất là sau trận Thanh Khoái, nghĩa quân ông lâm vào tình thế bị cô lập nên bị thiếu thốn về mọi mặt.

Đầu năm 1891, Tống Duy Tân cho chuyển quân từ An Lẫm về làng Vinh (một làng Mường ở châu Thường Xuân). Hay tin, quân Pháp liền tổ chức tấn công. Mặc dù chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng ông cũng phải dẫn tàn quân rút về Hòn Mông, rồi về vùng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân (tức quê hương và căn cứ cũ của thủ lĩnh Cầm Bá Thước).

Tháng 3 năm 1892, từ sông Đà, Đốc Ngữ dẫn quân vượt sông Mã vào Thanh Hóa. Sau khi bàn bạc, Tống Duy Tân và Đốc Ngữ cùng hợp quân đi tấn công quân Pháp ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa). Mặc dù thu được một số thắng lợi, nhưng cũng không thể nào cứu vãn được tình thế.

Hoạt động ở đây một thời gian ngắn, thì Đốc Ngữ dẫn quân trở lại mạn sông Đà [3]; còn Tống Duy Tân, thì ở lại cầm cự một thời gian nữa. Nhưng trước cuộc bao vây và càn quét ngày càng ác liệt của đối phương, khoảng tháng 9 năm 1892, ông tuyên bố giải tán quân sĩ để tránh thêm thương vong.

Sau đó, ông về ẩn náu ở hang Niên Kỷ, còn Cao Điển cùng một số thuộc hạ quyết chí ở lại thì đóng trên một ngọn đồi gần bên. Chỉ mấy hôm sau, học trò cũng là cháu ruột Tống Duy Tân là Cao Ngọc Lễ đi mật báo cho Pháp đến vây đánh [4]. Ngày 3 tháng 10 năm 1892, quân Pháp và quân Cao Điển chạm súng ác liệt, nhưng đến ngày hôm sau thì Tống Duy Tân bị bắt, còn Cao Điển thì chạy thoát được ra Bắc Kỳ [4]. Khởi nghĩa Hùng Lĩnh đến đây coi như đã thất bại.

Tống Duy Tân bị thực dân Pháp cho hành hình tại Thanh Hóa ngày 5 tháng 10 (âm lịch) năm Nhâm Thìn (1892), lúc 55 tuổi.

Trước ngày mất, ông có làm câu đối:

Nhị kim thủy liễu tiên sinh trái

Tự cổ do truyền bất tử danh

Nghĩa:

Món nọ tiên sinh nay mới trả

Cái danh bất tử trước còn truyền.

Sau khi Tống Duy Tân thọ án, nhân sĩ tỉnh Thanh Hóa có làm bài thơ và câu đối điếu đều bằng chữ Hán như sau:

-Câu đối điếu:

Tự cổ anh hùng, thiết thạch can trường nan tận tả;

Đáo đầu sự thế, xuyên hà huyết lệ hạt năng lưu.

Nghĩa là:

Từ trước anh hùng, dạ sắt gan vàng không xiết tả;

Đến cùng sự thế, máu sông lệ suối chảy sao trôi!

-Bài thơ điếu:

Quốc kế linh nhân hoán nại hà,

Trùng văn quân phó lệ thiêm đa

Triều đình giáo dục tiên trung hiếu

Ngô bối y quan trọng giáp khoa

Bách chiến giang sơn dư xích huyết,

Thập niên tâm sự đối hoàng hoa

Dao tri sát tặc Tây Dương quỷ

Định hữu trung hồn hộ đế xa.

Hoàng tạo dịch:

Nước nhà khôn biết tính sao

Lại nghe ông chết, giọt châu ròng ròng

Triều đình trước dạy hiếu trung

Giáp khôi vinh quý hơn trong mọi người

Non sông trăm trận máu rơi

Mười năm tâm sự gửi nơi hoa vàng

Giết thù làm quỷ Tây Dương

Hồn trung theo giúp quân vương từ rày.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.

Chú thích:

[1] Chép theo Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2, tr. 77), và Lịch sử 11 (nâng cao, tr. 253). Tuy nhiên, Việt sử tân biên (sách đã dẫn, tr. 137), Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX, tr. 124) đều ghi năm khởi phát cuộc khởi nghĩa này là 1886 nhưng không cho biết lý do.

[2] Việt sử tân biên, sách dã dẫn, tr. 138.

[3] Về đến sông Đà, quân Đốc Ngữ còn chiến đấu thêm một vài tháng nữa thì tan rã hẳn, sau khi Đốc Ngữ bị quân Pháp sát hại vào ngày 7 tháng 8 năm 1892.

[4] Đa phần các sách sử trong đó có: Lịch sử Việt Nam [1858-cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1, tr. 128), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2. tr. 78) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 848) đều ghi theo ý này. Tuy nhiên theo nhà sử học Phạm Văn Sơn thì vì bị hăm dọa mà vợ của một viên thổ ty (khi trước có chứa chấp nghĩa quân) phải dẫn thiếu úy Hensxhell cùng 20 lính đi bắt sống Tống Duy Tân vào chiều ngày 4 tháng 10 năm 1892. Còn phần Cao Ngọc Lễ làm chỉ điểm, ông chỉ chú thích thêm là có sách chép như vậy (Việt sử tân biên, quyển 5, tập trung, tr. 141).

[4] Trú ẩn được một thời gian, Cao Điển định đến với Hoàng Hoa Thám (thủ lĩnh khởi nghĩa Yên Thế), nhưng vừa tới Bắc Giang thì đã bị quân Pháp bắt được vào ngày 16 tháng 1 năm 1896 (theo Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 5, tập trung, tr. 142). Phần Cầm Bá Thước vẫn ở lại tiếp tục hoạt động cho đến tháng 5 năm 1895 thì bị đối phương bắt giết. Đến đây phong trào kháng Pháp ở Thanh Hóa mới hoàn toàn tan rã.

Sách tham khảo:

-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 5, tập trung). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn. 1963.

-Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2006.

-Hoàng văn Lân-Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam [1858-cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.

-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.

-Nhiều người soạn (Phan Ngọc Liên chủ biên). Lịch sử 11 (nâng cao). Nhà xuât bản Giáo Dục, 2007.

-Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4). Nhà xuất bản Trẻ, 2007.

Không có nhận xét nào: