Cầu Trường
Tiền
Cầu Trường
Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền [1], là chiếc cầu dài 403 m, gồm 6 nhịp
dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m [2], được thiết kế
theo kiến trúc Gô tích, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Phú
Hòa, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế thuộc
Việt Nam.
I. Lịch
sử và tên gọi:
Căn cứ bài thơ Thuận Hóa thành tức sự của nhà thơ Thái Thuận [3], thi sĩ
Quách Tấn đã cho rằng dưới thời vua Lê Thánh Tôn, sông Hương đã có cầu. Chiếc
cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có
tên là cầu Mây. Vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là cầu Mống.
Trải bao năm tháng, không biết khi nào, cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu
lát bằng ván gỗ lim.
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chiếc cầu trên được nhà cầm quyền Pháp (khi
ấy Khâm xứ Trung Kỳ là Levécque) giao cho hãng Eiffel (Pháp) thiết kế (do
Gustave Eiffel thiết kế) và khởi công xây dựng lại bằng sắt, đến năm Thành Thái
thứ 11 (1899) thì hoàn thành và được mang tên vị vua này. Tổng cộng tiền xây
cầu Thành Thái tiêu tốn hết khoảng 400 triệu đồng, là một số tiền lớn vào thời
đó.
Năm Giáp Thìn (1904), bão lớn làm cầu hư hỏng nặng. Năm sau, tức năm
Thành Thái thứ 17 (1905) [4], chiếc cầu mới
được sửa chữa lại bằng xi măng cốt thép. Tổng chiều dài cây cầu lúc bấy giờ là
401,10 m, rộng 6,20 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược (hay hình bán
nguyệt), và diện mạo này, vẫn giữ được cho đến ngày hôm nay. Năm 1907, khi vua
Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì chính quyền thực dân Pháp
cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, một Thủ tướng
Pháp thời Thế chiến thứ nhất.
Đến năm 1937, cầu được mở rộng thêm hai hành lang ở hai bên (có những ban
công hình bán nguyệt để có chỗ dừng chân, hay né tránh nhau), dành cho người đi
bộ, xe đạp.
Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng.
Năm 1946, trong chiến tranh Việt - Pháp, cầu bị Việt Minh đặt mìn, giật
sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại.
Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy [5], khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật
sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc
cầu phao được dựng lên tạm thời, và cầu Trường Tiền cũng được tiến hành sửa
chữa lại.
Từ năm 1991 đến 1995, công ty Công ty Cầu 1 Thăng Long lãnh trách nhiệm
trùng tu, xây lại hai nhịp cầu, và tất cả các bao lơn cũng bị phá bỏ.
Mặc dù trải nhiều tên gọi, nhưng từ rất lâu, cái tên cầu Trường Tiền (vì
chiếc cầu nằm gần một công trường đúc tiền, gọi tắt là Trường Tiền của nhà
Nguyễn và phố Trường Tiền do vua Thành Thái lập năm 1899) vẫn được người dân
quen gọi và đã đi vào nhiều bộ môn nghệ thuật...
II. Trong
Văn học Nghệ thuật:
Tên Cầu Mống đã xuất hiện trong thơ Thái Thuận:
Thuận Hóa thành tức sự
(Quách Tấn dịch)
Ghe thuyền qua lại sớm liền trưa
Cầu Mống giăng sông cửa nước chừa.
Mây lẫn bóng non trời rộng mở,
Gió dồn tiếng sóng biển xa đưa.
Chợ chiều tấp nập thân là lụa,
Nét bút bồi hồi nhịp trúc tơ.
Ca nữ quản bao dòng huyết hận,
Địch đài trổi khúc lạc mai xưa.
Sau Cầu Mống, là cầu Trường Tiền. Và công trình này đã nhanh chóng trở
thành một thắng cảnh nổi tiếng, và là đề tài của nhiều bộ môn nghệ thuật. Trích
giới thiệu:
Cầu Trường Tiền lúc hoàng hôn.
Cầu Trường Tiền trong những câu ca:
Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em theo không kịp
Tội lắm anh ơi!
Bấy lâu mang tiếng chịu lời
Anh có xa em đi nữa
Cũng tại ông Trời nên xa [6].
Năm 1905, chiếc cầu được đúc lại bằng bê tông cốt thép, nên có câu:
Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi-mon
Ơi người lỡ hội chồng con
Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non...[7]
Năm 1946, trong chiến tranh Pháp - Việt, cầu bị đặt mìn giật sập. Sau đó,
lại có câu:
Cầu Trường Tiền bấy nhiêu niên (năm) qua lại,
Kể tự đời Thành Thái đến nay.
Chạnh lòng biết hỏi ai đây,
Việc chi nên nỗi đang tay dứt cầu?
Và có ai đó đã đáp lại rằng:
Chí quyết thắng Pháp Tây
Nên cầu nầy phải phá,
Qua sông còn nhiều ngã
Đừng buồn bã em ơi.
Nước non khôi phục được rồi,
Cầu nầy bắc lại, không mấy hồi đó em...
Trong thời gian Nguyễn Bính lưu lạc đến Huế, cầu Trường Tiền cũng đã xuất
hiện trong thơ ông:
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ
Gustave Eiffel người thiết kế cầu Trường Tiền.
Đôi bờ đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình...
...Bồng bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh...
(trích trong Vài nét Huế, 1941)
Sau sự kiện Tết Mậu Thân, cầu Trường Tiền bị bom đạn gây hư hại nặng. Quá
xúc cảm, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết bài hát Chuyện một chiếc cầu đã gãy để nói
lên sự việc này, có những câu :
...Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài
Vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu...
Ngoài ra, cầu Trường Tiền cũng đã được in trong bộ tem thư của Việt Nam.
III. Mười
hai vài, sáu nhịp:
Theo Từ điển tiếng Việt, cái gọi là vài cầu (hay vì cầu)[8], “là kết cấu nối hai nhịp giữa hai mố cầu và
tựa lên các mố đó", còn nhịp cầu cũng theo từ điển này là “khoảng cách giữa
hai trụ cầu và mố cầu liền nhau”. Theo đó, TS. Trần Đức Anh Sơn cho rằng cầu
Trường Tiền thực sự là “mười hai vài, sáu nhịp” chứ không phải là “sáu vài,
mười hai nhịp”. Ca dao có câu:
Chợ Đông Ba đem ra góc thành,
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bến đò Ghềnh bắc ngang.
Hay:
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua,
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hồ đợi khúc âu ca thái bình.
Song đôi khi, để thuận tai, để có vần, có điệu, một vài tác giả dân gian
đã đổi từ “mười hai vài, sáu nhịp” sang “sáu vài mười hai nhịp”, như ở câu:
Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Anh theo không kịp
Tội lắm em ơi!....
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
1. Chữ Hán: 場錢: viết và đọc
Trường Tiền hay Tràng Tiền, với nghĩa là "công trường đúc tiền" đều
đúng (場 tràng, trường). Sở dĩ cầu có tên này là vì "cầu bắc qua sông Hương
gần vị trí đúc tiền thời Nguyễn", và sau 30 tháng 4 năm 1975, tên gọi dân
gian được sử dụng làm tên chính thức. (theo Từ điển lịch sử Thừa Thiên-Huế,
trang 839, do TS Đỗ Bang chủ biên).
2.Các con số ghi theo Từ điển bách khoa Việt Nam (quyển I, tr. 389)
3.Thái Thuận (chữ Hán: 蔡順, 1440 -?), phó nguyên suý Tao đàn Nhị thập bát
Tú, tác giả Lữ Đường thi di cảo.
4. Ghi theo Từ điển
bách khoa Việt Nam
(quyển I, tr. 389). Thi sĩ Quách Tấn (sách đã dẫn, tr. 137) ghi là năm 1906.
5.Theo Từ điển
bách khoa Việt Nam
(quyển I, tr. 389).
6.Chép theo Quách
Tấn (tr. 129). Cũng theo ông, câu ca này tả tâm sự của một bầy tôi không kịp
chạy theo vua, chứ không phải viết về đề tài tình yêu trai gái.
7.Quách Tấn giải
thích: "người lỡ hội chồng con", ám chỉ những chiến sĩ còn sống sót
sau cuộc Cần Vương (Bước lãng du, tr. 136).
8.Vài vốn là
"vì" (nghĩa là kèo) đọc trại mà thành (theo Từ điển Khoa Học và Kỹ
Thuật. NXB. Khoa Học và Kỹ Thuật).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét