Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Hai, 20 tháng 9, 2010

Đặng Dung và bài thơ Thuật hoài của ông

Đặng Dung và bài thơ Thuật hoài của ông

Đặng Dung (? - 1414) là nhà thơ và là danh tướng nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam.

I. Tiểu sử:
Ông là người xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
Tổ tiên Đặng Dung vốn là người Hóa Châu, sau di cư đến nơi ấy cư trú.
Dưới triều nhà Hồ, ông giúp cha là Đặng Tất (? - 1409) cai quản đất Thuận Hóa. Sau khi quân Minh (Trung Quốc) tiến chiếm nước Việt (khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu), nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi (tức Giản Định Đế).

Năm 1409, sau trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay); “vì nghe lời gièm pha của bọn hoạn quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoáng từ Thanh Hóa về đất Chi La (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), tôn lên ngôi vua (tức Trùng Quang Đế), và ông được giữ chức Đồng bình chương sự.
Về sau, do nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy cầm đầu đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng hoàng.
Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung ông đã vượt lên trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách đường đường của một vị tướng. Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao chiến, nổi bật hơn cả là trận đánh vào tháng 9 năm Quý Tị (1413) ở khu vực Thái Gia.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép:
Đang khi đôi bên quân nam và quân bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của (Trương) Phụ. (Đặng) Dung đã nhảy lên thuyền của (Trương) Phụ và định bắt sống (Trương) Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế, (Trương) Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà (Nguyễn) Súy không biết hợp lực để cùng đánh. (Trương) Phụ biết quân của (Đặng) Dung ít nên lập tức quay lại đánh. (Đặng) dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết [1].

GS. Nguyễn Khắc Thuần kể tiếp:
Tháng 11 năm 1413, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ bắt sống khi đang tìm đường tạm lánh sang Xiêm La để tính kế lâu dài. Vì liên tục lớn tiếng chửi mắng nên Nguyễn Cảnh Dị đã bị Trương Phụ hạ lệnh giết ngay. Còn Đặng Dung cùng Trần Quý Khoáng, Nguyễn Súy và một số tướng lãnh khác bị áp giải về Yên Kinh (Trung Quốc). Dọc đường, Trần Quý Khoáng nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng lập tức nhảy xuống chết theo [2].

Sử gia Trần Trọng Kim kể và kèm theo lời khen ngợi:
Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoáng, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả. Ông Đặng Dung có làm bài thơ Thuật hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng.
Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
..[3]

II.Thuật hoài:
Thuật hoài hay Cảm hoài là bài thơ tự sự của Đặng Dung khi ông đem quân giúp vua Trùng Quang Đế của nhà Hậu Trần, nhưng do lòng người ly tán, quân binh ít ỏi, lương thực thiếu thốn nên cuối cùng đã thất bại. Bài thơ thể hiện ý chí sắt đá của một người anh hùng nhưng không may là không gặp thời thế, công việc chưa xong thì tuổi đã già.

Thuật hoài được viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng, đúng niêm luật, đối chỉnh, bố cục rất hợp qui cách của thể thơ.

Đề gồm phá (câu 1) và thừa (câu 2) nói ngay tâm trạng "việc đời mờ tối, tuổi thì đã già, không biết làm sao, cứ say hát tràn". Thực (câu 3 & 4) giải thích tâm trạng của người anh hùng "không gặp được thời vận, sự nghiệp không thành, cứ ôm hoài mối hận trong lòng". Luận (câu 5 & 6) nói rộng tâm trạng hơn "là người có ý chí lớn lao muốn phò vua dẹp giặc nhưng không có cách nào thực hiện được". Kết (câu 7 & 8) kết lại tâm trạng "thù chưa trả, tuổi đã già, song vẫn cương quyết giữ vững ý chí diệt giặc đến cùng"

Nguyên tác & bản dịch
Nguyên tác:
感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨

Phiên âm Hán-Việt:
Cảm hoài
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

•Chép theo Ngữ văn 10 (nâng cao). Có bản chép khác: Thế lộ (câu 1), Nhập thù ca (câu 2), Sự khứ (câu 4), Trí chúa hữu tâm (câu 5), vị phục (câu 7).

Dịch nghĩa:
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.

Bản dịch của Tản Đà:
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.

Bản dịch của Phan Kế Bính:
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Thơ đời Trần, bất kể là vui hay buồn thường thể hiện sự khẳng định nhân phẩm và niềm tự hào về bản lĩnh con người. Và ngay cả trong cái buồn của thơ ca cuối thế kỷ thứ 14 vẫn còn còn phảng phất dư ba của hào khí Đông A. Và Thuật hoài, bài thơ duy nhất còn lại của Đặng Dung, được chép trong Toàn Việt Thi Lục của Lê Quí Đôn (1726 - 1784) chính là một trong những bài thơ hay và tiêu biểu cho phong cách thơ ấy.

Nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu trong Từ điển văn học (bộ mới) đánh giá:
Tuy là thơ của một người ôm hận vì bất lực trước thời thế, "người đọc vẫn thấy toát lên ở đây tình cảm cao cả tràn khắp đất trời, đó là lòng yêu nước thiết tha của một tráng sĩ vì nước bôn ba, là niềm tin và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc qua hình tượng rất đẹp, rất thơ: “Mấy phen mang gươm Long Tuyền mài dưới trăng”". "Thuật hoài" ra đời vào những ngày cuối cùng của nhà Trần, nhưng vẫn mang trọn hào khí dân tộc của những năm đầu dựng nước và giữ nước cả về nội dung lẫn hình thức. Lý Tử Tấn (1378 - ?, quan thời Lê) nhận xét "Phi hào kiệt chi sĩ bất năng" (Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm được bài thơ này) [4].

Chú thích bài thơ:
-Du du còn có nghĩa là rối bời.
-Hàm ca: Cuộc rượu hát ca.
-Đồ điếu: Đồ là hàng thịt, điếu là câu cá; nhắc tích Phàn Khoái bán thịt chó, Hàn Tín câu cá, sau giúp Lưu Bang (Hán Cao Tổ) phá Tần, diệt Sở, làm nên nghiệp lớn.
-Trí chủ: Phò tá giúp đỡ cho chủ
-Địa trục: Trục trái đất.
-Tẩy binh: Điển tích từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ: An đắc tráng sĩ vãn thiên hà; Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng. Dịch nghĩa: Ước gì có tráng sĩ kéo nước sông Ngân xuống (dịch chữ thiên hà); Rửa sạch khí giới, mãi mãi không dùng đến nữa.
-Vị báo: Vị (chưa), báo (đáp trả lại).
-Long Tuyền là tên một loại gươm báu thời xưa.
-Đòng: một loại vũ khí của người xưa.

Chú thích phần tiều sử:
[1] Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỉ toàn thư, quyển 9, tờ 22-b). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép tương tự và kèm theo lời bình là: Trời nuông tha trương Phụ (Chính biên, quyển 12, tờ 39).
[2] Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam (tập 4). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006, sách đã dẫn, tr. 236.
[3] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, tr. 197.
[4] Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004, tr. 389.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn

2 nhận xét:

Dương Huy Hoàng nói...

Hàn Tín đâu có câu cá! Lúc thất thời "ăn chực" cơm phiếu mẫu,luồn trôn giữa chợ...Chỉ có "Lã vọng" Khương Tử Nha câu cá thui, Đại ca nhớ lầm rùi.

Unknown nói...

Tây Hán chí (tức Hán Sở tranh hùng. Bản dịch của Mộng Bình Sơn. Nxb Trẻ, 1989, tr. 161)và Trịnh Vân Thanh đều kể rằng:
"Hàn Tín, người ở đất Hoài Âm, đời Hán Sở tranh hùng. Nhà rất nghèo, ông thường đi câu cá để đổi gạo ăn, nhiều bữa không kiếm được cá, Hàn Tín phải nhịn đói suốt ngày. Bên cạnh nhà ông ở có một người phiếu mẫu (bà thợ giặt) thấy tình cảnh của Tín đáng thương thường dẫn về nhà cho cơm ăn. Một hôm, Tín câu được cá mang ra chợ bán, gặp tên côn đồ làm nhục (bắt luồn trôn)"...(Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, quyển I. Sài Gòn, 1988, tr. 402).