Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2010

Giới thiệu nhà văn Trần Phong Giao

Trần Phong Giao (1932-2005) [1] tên thật: Trần Đình Tĩnh, bút hiệu: Trần Phong, Thư Trung, Mõ Làng Văn; là nhà văn, dịch giả Việt Nam.

Ông sinh tại Nam Định. Năm 1954, ông di cư vào Nam. Năm 1960 đến năm 1963, ông làm thư ký toà soạn báo Tin sách do Trung Tâm Văn Bút Việt Nam chủ trương. Thời gian này, ông cũng bắt đầu dịch một số tác phẩm văn chương, triết học của các nhà văn nổi tiếng thế giới, như Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Paul Gallico.

Cuối năm 1963, ông làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn (số đầu tiên là số xuân Giáp Thìn, 1964) tại Sài Gòn do Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm.

Năm 1971, ông thôi làm ở tạp chí Văn, lập nhà xuất bản Giao Điểm và xuất bản tạp chí Giao Điểm, nhưng chỉ được ít số thì đình bản. Sau đó, ông có thực hiện một vài giai phẩm khác nữa (trong đó có tờ Chính Văn với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn), nhưng không thàng công. Cuối cùng ông trở lại công việc dịch sách và làm Quản thủ thư viện Đại Học Cửu Long cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bên cạnh các công việc trên, đầu năm 1975, ông còn giữ mục Giải đáp thắc mắc Văn học trên tờ Thời tập của nhà văn Viên Linh.

Sau một thời gian lâm bệnh (ung thư đại tràng), ông mất ngày 13 tháng 4 năm 2005 tại nhà riêng ở quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 73 tuổi. Sau đó, thi hài ông được hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.


Tác phẩm của Trần Phong Giao có:
*Sách sáng tác:
-Ngồi lại bên cầu (tập truyện)
-Nửa đêm thức giấc (tiểu thuyết)
*Sách dịch:
-Lưu đày và quê nhà (L'exil et le royaume) tuyển truyện của Albert Camus.
-Guồng máy (L'engrenage) dịch tác phẩm kịch của của Jean-Paul Sartre.
-Sứ mệnh văn nghệ (Discours de Suède), diễn văn đọc tại lễ nhận giải Nobel Văn chương của Albert Camus.
-Sự đã rồi (Les jeux sont faits) của Jean-Paul Sartre. Trần Phong Giao dịch chung với Nguyễn Xuân Hoàng.
-Không một nấm mồ (Morts sans sépulture) của Jean-Paul Sartre.
-Con chim trốn tuyết (Snow goose), truyện của Paul Gallico. Trần Phong Giao dịch chung với Hoàng Ưng.
-Kinh nghiệm đời văn của Erskine Caldwell. Trần Phong Giao dịch chung với Nhã Điển (Nxb Văn Hóa, 2009).

Giới thiệu một bài thơ do ông làm sau năm 1975:

Mộ hoài độc ẩm

Ly này ta rót mời ta
Chưa uống đã thấy xót xa phận mình
Mới ngày nao tóc còn xanh
Mà nay đã bạc, đã giềnh, đã thưa.

Rót thêm ly nữa mời ai
Chia tay mời bạn cõi ngoài vân du
Cỏ xanh đất mát ngàn thu
Trong hơi gió thoảng ai ru hồn người
Chiều cuối năm lá vàng rơi
Ly này ta rót mời người áo xanh
Lòng mưa ngâu, nắng hong hanh
Vàng rêu mái lá, buồn tênh mây trời.

Ly này, em của ta ơi!
Gươm quăng hố thẳm, ta mời ta sao?
Ngựa hồng tung vó trời cao
Áo sồng xưa đã giũ vào hư không...

Lưng trời giọt đại hồng chung
Quyện theo tiếng mõ mịt mùng quạnh hiu
Vô ngôn chiều ngẩn ngơ chiều
Vật vờ trôi giạt con diều đứt dây

Ly này uống nữa thì say
Trốn tà huân cánh én bay về nhà
Một mình ta uống cùng ta
Mộ hoài độc ẩm xót xa phận mình

Mới ngày nào tóc còn xanh...

Chú thích:
[1] Một số tài liệu khác ghi Trần Phong Giao sinh năm 1935. Riêng nhà báo Lê Phương Chi (bạn tâm giao với ông) cho biết ông sinh năm 1929.

Thứ Tư, 29 tháng 12, 2010

Nguyễn Văn Hầu



Nguyễn Văn Hầu (1922-1995), là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học và lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Văn Hầu sinh trưởng tại xã Bình Phước Xuân trên Cù lao Giêng, thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, Thuở nhỏ, ông được học chữ Quốc ngữ, học Pháp ngữ và chữ Hán.
Năm 1952 bắt đầu dạy học, viết báo và viết sách. Ông viết cho nhiều báo ở Sài Gòn (Tạp chí Bách Khoa, Văn Đàn, Văn Hoá nguyệt san, Phổ Thông, Sử Địa, Phương Đông, Phật Giáo Việt Nam) về chủ đề biên khảo, nghiên cứu văn học và lịch sử địa phương. Trong giai đoạn này, ông còn làm Chủ bút nguyệt san Đuốc Từ Bi.
Từ năm 1960 đến 1968, ông đã từng tham gia viết sách giáo khoa môn giảng văn bậc Trung học với các tác giả Bàng Bá Lân, Đỗ Văn Tú, Vũ Quế Viên.
Năm 1971, ông nhận dạy môn văn học thuộc phân khoa văn khoa và sư phạm tại Viện Đại Học Hòa Hảo An Giang.
Từ năm 1977 đến 1995, ông thọ bệnh song đã cố gắng hoàn thành hai bộ bản thảo văn học: 300 năm văn học dân gian lục tỉnh và Văn học miền Nam lục tỉnh.
Nguyễn Văn Hầu mất ngày 12 tháng 3 năm 1995 tại An Giang.

Tác phẩm của Nguyễn Văn Hầu có:

*Nghiên cứu lịch sử:
-Thất Sơn mầu nhiệm (Liên Chính xuất bản năm 1955, Từ Tâm in lần thứ 2 năm 1970)
-Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (Tân Sanh ấn quán xuất bản, 1959)
-Việt sử kinh nghiệm (nhà xuất bản Hồn Quê, 1956)
-Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu (Xây Dựng xuất bản 1961, giải văn chương 1966 với bộ môn biên khảo, Hương Sen tái bản lần 1 năm 1974, nhà xuất bản Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay tái bản lần 2 năm 2002)
-Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hiến Lê xuất bản, 1970)
-Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang (Nam Cường xuất bản và tổng phát hành năm 1973, nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2000)
-Tuyên Trung Hầu Nguyễn Văn Tuyên (chưa xuất bản)

*Nghiên cứu tôn giáo:
-Việt Nam tam giáo sử đại cương (nhà xuất bản Phạm Văn Tươi, 1957, in lần thứ hai 1970)
-Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo (Hương Sen xuất bản năm 1969)
-Muốn về cõi Phật (Hương Sen xuất bản năm 1969, nhà xuất bản Tôn Giáo – Hà Nội tái bản năm 2005)
-Tu rèn tâm trí (Hương Sen xuất bản năm 1970, nhà xuất bản Tôn Giáo – Hà Nội tái bản năm 2004)
-Pháp luận (Hương Sen xuất bản năm 1970)

*Nghiên cứu văn học:
-Thuật viết văn (Nhà xuất bản Tự Do xuất bản năm 1960, Hương Sen tái bản lần 1 năm 1972, nhà xuất bản Trẻ tái bản lần 2 năm 2005)
-Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ (nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2004)
-300 năm văn học dân gian lục tỉnh (di cảo chưa xuất bản)
-Văn học miền Nam lục tỉnh (di cảo chưa xuất bản)

*Các thể loại khác:
-Tiếng quyên (thơ, Liên Chính xuất bản năm 1952)
-Bản ngã người Việt (dân tộc học, Văn Đàn tuần san xuất bản năm 1961, Hồn Quê in lại năm 1970)
-Nửa tháng trong miền Thất Sơn (du ký, Hương Sen xuất bản năm 1970, nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2000)

Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2010

Nhà văn Thẩm Thệ Hà

Thẩm Thệ Hà (1923-2009), tên thật là Tạ Thành Kỉnh; là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà báo Việt Nam.

Ông sinh ngày 9 tháng 3 năm 1923 tại quê nội là làng Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Thời niên thiếu, ông học ở Trảng Bàng rồi lên Sài Gòn tiếp tục học xong trung học ở đây.
Từ năm 14 tuổi, ông đã làm Chủ bút tạp chí Bạn Trẻ quy tụ nhiều cây bút trẻ lúc bấy giờ như: Hường Hoa, Khổng Dương, Vân An, Đoàn Giỏi...Đến năm 1937, thì ông đã có nhiều sáng tác thơ (ký bút danh Thành Kỉnh) đăng trên các báo ở Sài Gòn và Hà Nội như: Phổ Thông bán nguyệt san, Đồng Thinh, Chúa Nhật, Thanh Niên, Điện Tín...
Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông đổi bút hiệu là Thẩm Thệ Hà và tham gia Ban Điệp báo Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định cho đến năm 1952. Cùng với Vũ Anh Khanh, ông sáng lập nhà xuất bản Tân Việt Nam.
Năm 1953 đến 1975, ông hoạt động trong Ban Văn-Báo-Giáo Sài Gòn. Năm 1966, ông cùng với Tô Nguyệt Đình (tức Nguyễn Bảo Hóa) sáng lập nhà xuất bản Lá Dâu.
Trước 1975, ông vừa dạy học, vừa làm biên tập viên cho một số tờ báo và tạp chí; sau 1975 ông vẫn tiếp tục dạy học và viết cho các báo và tạp chí như: Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Sâu Khấu Thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn Giải Phóng Thứ Bảy... Ông là hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, hội viên Hội Văn nghệ Tây Ninh.
Thẩm Thệ Hà mất tại Bệnh viện Sài Gòn lúc 13g45 ngày 20 tháng 6 năm 2009 vì bệnh già, hưởng thọ 76 tuổi. Sau đó, thi hài ông được đưa đi hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm của Thẩm Thệ Hà gồm:
Thơ:
•Thâm thúy (viết trước 1945, chưa xuất bản)
•Trời nổi phong yên (viết sau 1945, chưa xuất bản)
•Tinh phi (kịch thơ ngắn, Tân Việt, 1950)
Tuy phần lớn thơ ông chưa được xuất bản, nhưng một số bài đã được tuyển đăng trong các tuyển tập như: Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Thơ mùa giải phóng (Nhà xuất bản Sống Chung), Thi ca Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, Mùa Xuân tuổi trẻ tình yêu (Nhà xuất bản Long An, 1989)...

Truyện dài:
•Vó ngựa cầu thu (Tân Việt, 1949)
•Gió biên thùy (Tân Việt, 1949)
•Người yêu nước (Tân Việt Nam, 1949)
•Lưu Động (Tân Việt Nam, 1949, nhưng vừa xuất bản đã bị tịch thu)
•Đời tươi thắm (Lá dâu, 1956)
•Hoa trinh nữ (Sống mới, 1957)
•Bạc áo hào hoa (Miền Nam, 1969)
•Tủi phấn thẹn hồng (di cảo)

Chính luận:
•Việt Nam trên đường cách mạng tân văn hóa (?)

Truyện dịch:
•Con đường cứu nước(Maroussia, tiểu thuyết của P.J.Stahl, Nam Việt, 1947)
•Mũi tên đen (The Black Arrow, tiểu thuyết của R.L.Stevenson, Sống mới, 1965)
•1.001 truyện ngắn hay nhất thế giới (?}

Truyện thiếu nhi:
Khoảng 14 truyện, đã được nhà xuất bản Sống mới và Khai trí ấn hành trước 1975: Bài học thương nhau, Con chim xanh, Tiểu anh hùng, Tàn giấc mơ tiên (nhà xuất bản Sống Mới), Thần điểu và hoa hồng, Thiên tài lạc lối, Nhân ngư công chúa, Ngọc Tuyền thảm sử, Đoàn quân áo đen, Chưa tròn tuổi mộng, Tài không đợi tuổi, Rửa tay gác kiếm, Ông Nghè Dê, Con chim vàng anh (nhà xuất bản Khai Trí).

Sách giáo khoa:
•Phương pháp làm văn nghị luận
•Phân tích và nghị luận văn chương
•Chính tả văn phạm
•Quốc văn toàn thư (cho các lớp Trung học đệ nhất cấp, tức từ lớp 6 đến lớp 9, theo cách gọi bây giờ)
Tất cả đều được xuất bản trước 1975 tại Sài Gòn.

Hồi ký:
•Văn thi sĩ chiến đấu trong lòng địch (di cảo)
*
Thơ ông (trước năm 1945) đượm chất trữ tình trong sáng, lời thơ nhẹ nhàng bay bướm, truyền cảm đậm đà. Đặc sắc nhất là bài: Bến đò chiều, Dòng mơ chung thủy, Rồi một chiều xuân, Xuân thanh sắc, Trịnh Đán...Từ sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyển sang loại thơ tranh đấu. Đặc sắc nhất là các bài thơ: Trời nổi phong yên, Việt Nam mến yêu, Tống biệt hành, Khoé mắt u hoài,...
Về văn, tác phẩm nổi bật của ông trong giai đoạn chống Pháp là 2 quyển truyện dài Người yêu nước và Lưu động đã gây tiếng vang lừng lẫy một thời. Năm 1966, ông cùng Tô Nguyệt Đình sáng lập Nhà xuất bản Lá Dâu, tiếp tục phát triển nền văn học tranh đấu. Tác phẩm nổi bật của ông trong giai đoạn trong giai đoạn này là 2 truyện dài: Đời tươi thắm và Bạc áo hào hoa.
Về sự nghiệp giáo dục, từ 1952, Thẩm Thệ Hà là nhà giáo dạy văn ở nhiều trường Trung học tại Sài Gòn. Năm 1962, ông chủ trương Việt Nam giáo khoa tập san, cổ xúy việc dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở các cấp học. Ngoài ra, ông còn là tác giả của nhiều bộ sách giáo khoa ban Trung học. Nhờ phương pháp giảng dạy tiến bộ, tài liệu chính xác...sách của ông được phổ biến rộng rãi ở nhiều trường tại miền Nam Việt Nam. Có sách tái bản đến lần thứ 15...

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Sách tham khảo:
•Trần Hữu Tá, mục từ Thẩm Thệ Hà trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
•Thanh Việt Thanh, Thẩm Thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, bài viết trên website Nam Kỳ lục tỉnh.

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2010

Dũng khí Đặng Đại Độ

Đặng Đại Độ (? - ?) là danh thần dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông nổi tiếng là người thanh liêm, chính trực, đầy dũng khí, rất được người dân đương thời ngưỡng mộ.

Đặng Đại Độ là người làng Cư Triền, huyện Phong Đăng, phủ Quảng Bình (nay là làng Quảng Cư, thị trấn Kiến Giang, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình).

Cha ông là Thỏa Lộc hầu Đặng Đại Lược (1690-1764), thuộc dòng dõi Quốc công Đặng Tất. Ông là người có khí tiết, tài văn chương nên được bổ vào viện Văn chức trong phủ chúa Nguyễn Phúc Khoát. Mùa xuân năm Tân Dậu (1741), Đặng Đại Lược làm Ký lục doanh Bố Chính. Năm Bính Dần (1746), thăng ông làm Cai bạ doanh Quảng Nam. Tuy làm quan lớn nhưng cảnh nhà vẫn nghèo khó, gì không nhận quà biếu của ai.

Nhờ học giỏi, Đặng Đại Độ sớm đỗ Hương tiến (Cử nhân), được bổ vào viện Văn chức, nơi cha đang làm quan.

Năm Mậu Thìn (1748), Đặng Đại Độ làm Ký lục doanh Bình Khang (Khánh Hòa ngày nay). Năm Tân Tỵ (1761), có nhóm người ở Thạch Bích (Quảng Ngãi) nổi dậy, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai ông cầm quân đi đánh. Xong việc, ông được cử làm Ký lục Quảng Nam, rồi làm Ký lục Trấn Biên (Biên Hòa).

Bấy giờ, có hai cai đội hầu cận chúa Nguyễn Phúc Khoát, nhận lệnh đi tìm bắt những con hát (ca nhi) đem về mua vui. Có lệnh chúa trong tay, hai viên chức này rất hống hách, làm nhiều điều trái phép nhưng không ai dám ngăn cản. Đến Trấn Biên, quen thói làm càn, Đặng Đại Độ sai bắt giết cả hai rồi cho đem xác treo ở chợ.

Ngay sau đó, ông xin rời nhiệm sở, tự mình mặc áo đơn, cổ đeo gông, đi bộ từ Trấn Biên ra thẳng Phú Xuân xin nhận tội. Cùng đi có đứa cháu gọi ông bằng chú. Người cháu đề nghị thuê võng cáng cho đỡ mỏi chân. Đại Độ đáp “Lại có hạng tội nhân mong được nhàn hạ ư?”.

Qua hơn một tháng đi bộ, Đặng Đại Độ tới kinh thành, vào bộ Hình dâng đơn xin tới nhà ngục chờ xét xử. Bộ Hình đem việc Đặng Đại Độ tâu lên, chúa Nguyễn cho triều kiến. Thấy ông không có triều phục, chúa sai người cấp cho, rồi chăm chú nghe ông nói rõ sự tình và lời xin nhận tội. Chúa Nguyễn an ủi, dụ rằng: "Khanh có tội gì đâu mà phải đọa đày mình khổ sở đến như vậy. Chỉ vì trẫm buồn phiền mệt nhọc nên mới bảo chúng nó tìm đôi đứa con hát về kinh giúp trẫm tiêu khiển, không dè chúng cậy thế hiếp người, giở thói làm càn, khanh giết đi là phải".

Biết ông là người liêm chính, chúa Nguyễn liền thăng Đặng Đại Độ làm Khâm sai tuần hành Ngũ phủ (Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận) kiêm Tuần phủ Gia Định, được quyền xem xét phẩm hạnh của các quan dưới quyền mà tùy nghi giáng chức hay thăng chức quan lại ở sáu địa phương trên.

Đặng Đại Độ mất tại nhiệm sở (Gia Định), Đại Nam liệt truyện không cho biết năm nào, chỉ có lời ghi chú rằng do sự trạng cha con Đặng Đại Độ được biết muộn, cho nên sách “Thực lục” không kịp chép đến.

Phần mộ Đặng Đại Độ, hiện ở Lệ Thủy (Quảng Bình), cách mộ Nguyễn Hữu Cảnh không xa.

Bàn về ông, GS. Nguyễn Khắc Thuần viết:
Vì mục đích an dân, Đặng Đại Độ sẵn sàng nghiêm trị bất cứ một ai dám nhũng nhiễu dân. Thế ra, phép nước nghiêm hay không nghiêm, trước hết đều do ở người thực thi phép nước. Cổ kim vẫn có không ít những vị quan dũng cảm, dám vì công lý mà to gan đụng độ với các đấng quan trên; nhưng nghiêm với chính mình và tự xử chính mình như Đặng Đại Độ, quả thật là rất hiếm. Cuộc đời của ông đã vĩnh viễn khép lại từ lâu, nhưng khí khái của ông thì vĩnh tồn với đất Biên Hòa - Gia Định, với tất cả những ai khao khát quốc thái dân an (Lần giở trước đèn. Nhà xuất bản Thanh Niên, 2003, tr. 195-196).

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Thứ Hai, 20 tháng 12, 2010

Thủ lĩnh Phan Xích Long (1893-1916)


Phan Xích Long (1893-1916), tên thật là Phan Phát Sanh tự Lạc, là người tự xưng là Đông cung (con vua Hàm Nghi), tự phong là Hoàng đế và được tôn làm thủ lĩnh các hội kín Nam Kỳ, một phong trào kháng Pháp mang màu sắc tôn giáo tại miền Nam Việt Nam ở cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.

1. Thân thế:
Phan Phát Sanh là con trai của Phan Núi, một viên chức cảnh sát gốc Hoa ở Chợ Lớn.

Thời nhỏ, Phan Phát Sanh lười học, làm bồi [1] cho Pháp. Sau rời quê nhà để đi rong chơi, đến Tân Châu rồi Bảy Núi (Thất Sơn) tìm học bùa phép, cách chế tạo những quả bom cỡ nhỏ.

Lúc bấy giờ, có Nguyễn Hữu Trí [2] và Nguyễn Hiệp là hai thanh niên yêu nước. Khoảng năm 1911, họ tình cờ quen được Phan Phát Sanh, rồi cùng mưu cuộc đánh đuổi thực dân Pháp. Để vận động và tuyên truyền cho sự nghiệp chung, Phan Phát Sanh tự xưng mình là Phan Xích Long, con vua Hàm Nghi và cũng tự phong mình là Hoàng đế.

Buổi đầu, Phan Xích Long đặt cơ sở đầu tiên ở Cần Vọt (Cao Miên). Ở đó, nhờ tiền quyên góp, ông cho cất một ngôi chùa để làm nơi tụ họp, lập hội kín, chế tạo lựu đạn, trái phá, in truyền đơn đưa ra tuyên cáo Phản Pháp phục Nam, kêu gọi mọi người chống Pháp...Sau này khi về nước, ông lập căn cứ ở vùng núi Thất Sơn (Châu Đốc, tỉnh An Giang).

2. Khởi nghĩa thất bại:
Phan Xích Long và Nguyễn Hữu Trí định rằng sẽ dùng lực lượng lớn (đa phần là hội viên hội kín ở Chợ Lớn và Long An) để đánh chiếm các cơ quan đầu não của Pháp tại Sài Gòn. Theo đó, nhiều hội kín ở các tỉnh cũng sẽ nổi dậy giành lấy chính quyền.

Chuẩn bị xong, đêm 23 rạng sáng 24 tháng 3 năm 1913, ông cho người đặt 8 trái bom tự tạo có hẹn giờ ở một số cơ quan chính quyền tại Sài Gòn và Chợ Lớn, đồng thời chia nhau đi rải truyền đơn và dán bản hịch trong thành phố. Chẳng may chưa tới giờ bom nổ thì quân Pháp đã phát hiện được. Nhà cầm quyền liền sai quân đi tháo gỡ và lùng bắt quân khởi nghĩa. Không nghe tiếng bom nổ, nhiều toán quân đã kịp rút đi. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn bắt được một số đông khi họ đang đi vào Chợ Lớn, vì kiểu đồng phục “quần đen, áo trắng, khăn trắng quấn cổ” mặc dù tay không cầm vũ khí.

Kết cuộc, Nguyễn Hữu Trí chạy thoát, Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết và bị bắt ở đó, bị đem về giam ở Khám lớn Sài Gòn. Từ ngày ngày 5 đến ngày 12 tháng 11 năm 1913, Tòa án Sài Gòn xử tha bổng 54 người, kêu án 57 người (đều là người Việt ở Chợ Lớn và Long An, chỉ có 1 người Hoa kiều), trong đó có 6 người bị án chung thân khổ sai là: Phan Xích Long, Nguyễn Tri, Nguyễn Hiệp (án hiện diện), Nguyễn Màng, Trương Phước, Nguyễn Ngọ (không bắt được, bị án khiếm diện).

Lãnh án, Phan Xích Long bị giam cầm ở Khám lớn Sài Gòn. Việc làm của ông khiến "chấn động những trái tim yêu nước và giới giang hồ mã thượng"[3].

Năm 1916, nhân Pháp bại trận trong Thế chiến thứ nhất, khoảng 300 hội viên của các hội kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Giuộc, Cần Đước..., tìm cách phá ngục cứu Phan Xích Long.

Sau khi chuẩn bị xong, 3 giờ sáng đêm 16 tháng 2 năm 1916, với khẩu hiệu "Cứu Đại ca" (chỉ Phan Xích Long), tất cả hội viên do Nguyễn Hữu Trí đứng đầu, từ hàng chục chiến thuyền buôn đang đậu trên sông cầu Ông Lãnh, giở khoang, vứt bỏ lá ngụy trang, nhảy lên bờ với áo đen, quần trắng, khăn trắng quấn cổ, cổ mang phù chú, tay cầm đủ thứ binh khí (không có súng) chia làm ba nhóm xông lên tấn công dinh Thống đốc và Khám lớn.

Gần tới nơi, ba nhóm nhập lại rồi chia ra thành hai, nhưng cả hai cánh đều bị quân Pháp đánh đuổi...Họ giết chết tại trận 6 người (có Nguyễn Hữu Trí), làm bị thương nhiều người khác. Và bất kỳ ai mặc quần đen áo trắng buổi sáng ấy, đang lẩn quẩn ở khu vực xảy ra chuyện, đều bị bắt nhốt. Lúc bấy giờ, ngoài lực lượng đi tấn công, còn có các lực lượng khác ở xung quanh Sài Gòn chờ phối hợp, nhưng vì không thấy có hiệu lịnh như đã định nên rút lui. Nhờ vậy mà nhiều người đã đào thoát được.

Sau đó, tòa kết tội tử hình 38 người tại Đồng Tập Trận [4] vào ngày 22 tháng 2 năm 1916, trong đó có Phan Xích Long. Ngày 16 tháng 3 năm 1916, tử hình thêm 13 người nữa, cũng tại địa điểm trên. Tổng cộng sau 2 lần bắn và 6 người đã chết trước, là 57 người [8]. Tất cả đều được chôn tại nghĩa địa Đất Thánh Chà ở giữa đường Võ Thị Sáu và chợ Tân Định hiện nay.

Khi ấy Phan Xích Long mới 23 tuổi.

Cuộc khởi nghĩa mà ông chủ mưu được các sử gia gọi là "Quái kịch Phan Xích Long ở Nam Kỳ", là "việc làm như giả ngộ, chưa chi mà lậu sự bị bắt bớ lung tung". Tuy nhiên, đây cũng là một trang sử trong lịch trình chống ngoại xâm của nhân dân Việt [5].

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Ghi chú:
[1].Bồi: phiên âm của boy, chỉ người sai việc ở nhà, ở khách sạn hoặc ở tiệm ăn (theo Thanh Nghị, Việt Nam tân từ điển. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991).
[2].Theo GS. Trần Văn Giàu thì Nguyễn Hữu Trí là người Cần Giuộc (Long An). Ông đã lên núi Tà Lơn thuộc tỉnh Kam-pốt (Campuchia) xây dựng một ngôi chùa lớn, giả dạng tu hành để mưu cuộc chống Pháp. Nhờ khéo vận động, một thời gian sau ông đã lập được một tổ chức kháng Pháp tương đối có hệ thống gồm nhiều hội kín ở nhiều tỉnh thuộc Nam Kỳ (Lược sử Thành phố Hồ Chí Minh, in trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 1, 1987, tr. 269).
Tuy nhiên, có sách cho rằng lúc bấy giờ, ở làng Đa Phước (tỉnh Chợ Lớn) có Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Hiệp đang nuôi lòng đánh Pháp. Tháng 7 năm 1911, lúc đi Tân Châu mua bắp về bán, họ tình cờ gặp Phan Phát Sanh, được Sanh chỉ dạy đạo giáo và phương thức tập hợp quần chúng. Về Chợ Lớn, Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Hiệp chọn một ông lão tên Nguyễn Văn Kế, tuyên truyền đó là Phật sống. Nhận được tin, chủ tỉnh Chợ Lớn đến bắt ông Kế nhưng sau đó lại thả. Chuyện đang thuận lợi thì ông Kế chết vào tháng 2 năm 1912, Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Hiệp bèn trở lại Tân Châu tìm Phan Phát Sanh tôn làm lĩnh tụ. Kể từ đấy Phan Phát Sanh tự xưng là Phan Xích Long, con vua Hàm Nghi và cũng tự phong mình là Hoàng đế (Việt Lâm, cuộc nổi dậy ở Sài Gòn 1913, in trong sách Nam Bộ xưa và Nay do nhà xuất bản TP. HCM và tạp chí Xưa và Nay ấn hành).
[3] và [5] Chép theo Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, (nhà xuất bản TP. HCM, 1991, tr. 270-271) và Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992, tr.792).
[4] Đồng Tập Trận là vùng đất dùng làm nơi luyện tập và diễu binh của quân đội nhà Nguyễn đầu thế kỷ 19. Khu vực rộng lớn này, nay là vùng đất hai bên đường 3 tháng 2 và Điện Biên Phủ thuộc quận 3 và quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

Phong trào hội kín Nam Kỳ

Phong trào hội kín Nam Kỳ là tên gọi một phong trào tự phát của giới dân nghèo, nhằm chống lại ách áp bức của thực dân Pháp vào những năm đầu thế thế kỷ 20 tại miền Nam Việt Nam. Sau cuộc tiến công vào Sài Gòn thất bại (1916), bị khủng bố, các hội kín gần như không còn hoạt động, nhưng dư âm vẫn còn khá mạnh trong nhiều năm tiếp theo.

1. Tên gọi và mục đích:
Khi mà phong trào Minh tân[1] công khai cải cách vừa tàn, thì ở miền Nam Việt Nam liền xuất hiện hình thức chống thực dân Pháp mới, đó là phong trào lập ra các hội kín. Có người gọi đó là Thiên địa hội, còn người Pháp thì gọi là sociétés secrètes. Song bản thân các tổ chức này không mang một tên thống nhất mà có khá nhiều tên gọi khác nhau.
Buổi đầu, giới dân nghèo bị áp bức đã tự phát lập ra hội kín ở Châu Đốc, Biên Hòa, Bến Tre, sau đó lan ra khắp Nam Kỳ, với mục đích chung là lật đổ chính quyền thực dân, tôn Phan Xích Long làm Hoàng đế. Theo sách Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 2) thì trong 4 năm Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) ở đây có từ 70 đến 80 hội kín [2].

2. Tổ chức:
Thành phần tham gia đông nhất vào các hội kín Nam Kỳ là nông dân và dân nghèo thành thị đang ở tuổi khỏe mạnh. Theo nhà văn Sơn Nam thì đa số đều là người Việt, người Hoa kiều đóng vai phụ, thường là giữ chức vụ coi sóc nghi lễ trong hội mà thôi. [3]
Về tư tưởng triết lý, hội kín khá phức tạp, bởi gồm cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Khi quân Pháp đi xét bắt, thì gặp ở nhiều nhà bài Phú hoài cổ nói là của nhà giáo Võ Trường Toản. Đây là một tác phẩm đề cao trung hiếu và tư tưởng “xả thân thủ nghĩa”.
Về bùa chú, các hội viên tin rằng nó có thể tăng thêm sức mạnh và giúp họ tránh được mọi hiểm nguy khi lâm trận. Theo sách Đại cương Lịch sử Việt Nam (Tập 2) thì tôn giáo và phương thuật (phép lạ của các đạo sĩ) giữ vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động và tổ chức hội. Tuy vậy, trong hàng ngũ của nhiều hội kín, không có thầy pháp. Và mặc dù hay dựa vào các chùa, nhưng trong hàng ngũ của họ cũng không có các nhà sư [4].
Các hội kín hoạt động độc lập, không có một hệ thống chỉ huy chung, tuy nhiên tất cả đều suy tôn Phan Xích Long (Phan Phát Sanh) làm Hoàng đế. Mỗi hội đều có một Hội chủ (gọi là Ông chủ). Hội chủ thường chia hội viên ra từng nhóm nhỏ (khoảng vài chục người) gọi là “kèo”. Giữa các “kèo” không được biết nhau, khi cần gặp nhau hội viên phải dùng ngôn ngữ và dấu hiệu do Hội chủ quy định.
Khi so sánh với tổ chức Thiên địa hội Trung Quốc, GS. Trần Văn Giàu còn nêu ra mấy ý như sau:
-Tuy cũng uống máu ăn thề, nguyện tuyệt đối trung thành với nhau, với hội và qua thử thách xem có đủ can đảm không, song trong hội kín Nam Kỳ không hề có đẳng cấp với tính chất phong kiến và tôn giáo như trong Thiên địa hội Trung Quốc.
-Về tổ chức, hội kín Nam Kỳ cũng đơn giản hơn nhiều, vì tính chất bình đẳng, huynh đệ lại là cơ bản.
Và cũng theo giáo sư Giàu, gọi những tổ chức bí mật này là Thiên địa hội là sai. Bởi đây không phải như là biến dạng của những tổ chức Thiên địa hội chống Thanh của miền Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, nhà văn Sơn Nam thì đây là Thiên địa hội của người Việt Nam. Về tổ chức, nó chịu ảnh hưởng của Thiên địa hội Trung Quốc [5].

3. Hoạt động
Hoạt động có tiếng vang lớn của phong trào hội kín Nam Kỳ là cuộc đấu tranh chống chính sách bắt lính của thực dân Pháp và hai cuộc đột nhập vào Sài Gòn (1913 và 1916).
3.1 Đấu tranh chống bắt lính sang Pháp
Từ cuối năm 1915 sang đầu năm 1916, giữa lúc thực dân Pháp tiến hành bắt lính sang Pháp đợt hai thì cuộc đấu tranh của phong trào hội kín bùng nổ, ban đầu ở các tỉnh Mỹ Tho, Trà Vinh, Bến Tre, Tây Ninh, Biên Hòa; dần lan rộng ra nhiều nơi và lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia.
Điểm lược một số cuộc đấu tranh nổi bật trong năm 1916:
-Ngày 20 tháng 1, tại tỉnh Trà Vinh đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh vũ trang chống lại việc mộ lính của chính quyền thực dân.
-Ngày 23 tháng 1, khoảng 200 hội viên do Lê Văn Hổ, Phạm Văn Hậu, Nguyễn Văn Liên đứng đầu đã kéo tới phá trụ sở tuyển mộ lính ở tổng Chánh Mỹ (Biên Hòa). Cuộc đánh phá diễn ra nhanh chóng, phối hợp với các tù nhân ở tỉnh lỵ nổi dậy phá ngục (17 tù nhân thoát được).
-Tháng 2 năm 1916, nhóm hội kín Vương Văn Lê, Nguyễn Văn Thạch, Lê Văn Hà nổi dậy, làm chủ được vùng Tân Triều (Tây Ninh). Cũng trong tháng này, nhóm hội kín Nguyễn Văn Huệ tấn công Ô Cấp (Bà Rịa).
-Đêm ngày 2 rạng ngày 3 tháng 2, hơn 200 hội viên hội kín Nghĩa Hòa tập trung ở Mõ Cày (Bến Tre), rồi kéo đến bao vây trụ sở mộ lính của huyện...
Tuy nhiên, vì chỉ có giáo mác, gậy gộc và bùa chú, nên khi đối mặt với súng đạn của Pháp, phong trào này nhanh chóng thất bại.
3.2 Tấn công Sài Gòn năm 1913
Cuộc tấn công do Phan Xích Long (tự cho mình là "Đông Cung", con vua Hàm Nghi) và Nguyễn Hữu Trí (quê ở Cần Giuộc) tổ chức, định rằng sẽ dùng lực lượng lớn (đa phần là hội viên hội kín ở Chợ Lớn và Long An) để đánh chiếm các cơ quan đầu não của Pháp tại Sài Gòn. Ngay sau đó, nhiều hội kín ở các tỉnh cũng sẽ nổi dậy giành lấy chính quyền.
Chuẩn bị xong, đêm 23 rạng sáng 24 tháng 3 năm 1913, ông cho người đặt 8 trái bom tự tạo có hẹn giờ ở một số cơ quan chính quyền tại Sài Gòn và Chợ Lớn, đồng thời chia nhau đi rải truyền đơn và dán bản hịch trong thành phố. Chẳng may chưa tới giờ bom nổ thì quân Pháp đã phát hiện được. Nhà cầm quyền liền sai quân đi tháo gỡ và lùng bắt đội quân của Phan Xích Long. Không nghe tiếng bom nổ, nhiều toán quân đã kịp rút đi. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn bắt được một số đông khi họ đang đi vào Chợ Lớn, vì kiểu đồng phục “quần đen, áo trắng, khăn trắng quấn cổ” mặc dù tay không cầm vũ khí.
Kết cuộc, Nguyễn Hữu Trí chạy thoát, Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết và bị bắt ở đó, bị đem về giam ở Khám lớn Sài Gòn.
Từ ngày ngày 5 đến ngày 12 tháng 11 năm 1913, Tòa án Sài Gòn xử tha bổng 54 người, kêu án 57 người (đều là người Việt ở Chợ Lớn và Long An, chỉ có 1 người Hoa kiều), trong đó có 6 người bị án chung thân khổ sai là: Phan Xích Long, Nguyễn Tri, Nguyễn Hiệp (án hiện diện), Nguyễn Màng, Trương Phước, Nguyễn Ngọ (không bắt được, bị án khiếm diện).
3.3 Tấn công Sài Gòn năm 1916
Năm 1916, nhân Pháp bại trận trong Thế chiến thứ nhất, khoảng 300 hội viên của các hội kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Giuộc, Cần Đước..., cùng tìm cách phá ngục cứu Phan Xích Long.
Sau khi chuẩn bị xong, 3 giờ sáng đêm 16 tháng 2 năm 1916, với khẩu hiệu "Cứu Đại ca" (chỉ Phan Xích Long), tất cả hội viên do Nguyễn Hữu Trí đứng đầu, đều được uống bùa, cổ mang phù chú, từ sông cầu Ông Lãnh vứt bỏ lá ngụy trang, nhảy lên bờ với áo đen, quần trắng, khăn quấn cổ màu trắng, tay cầm giáo mác, gậy gộc (không có súng) chia làm ba nhóm xông lên tấn công dinh Thống đốc và Khám lớn.
Gần tới nơi, ba nhóm nhập lại rồi chia ra thành hai, nhưng cả hai cánh đều bị quân Pháp đánh đuổi...Họ giết chết tại trận 6 người (có Nguyễn Hữu Trí), làm bị thương nhiều người khác. Và bất kỳ ai mặc quần đen áo trắng buổi sáng ấy, đang lẩn quẩn ở khu vực xảy ra chuyện, đều bị bắt nhốt. Lúc bấy giờ, ngoài lực lượng đi tấn công, còn có các lực lượng khác ở xung quanh Sài Gòn chờ phối hợp, nhưng vì không thấy có hiệu lịnh như đã định nên rút lui. Nhờ vậy mà nhiều người đã đào thoát được.
Sau đó, tòa kết tội tử hình 38 người tại Đồng Tập Trận [6] vào ngày 22 tháng 2 năm 1916, trong đó có Phan Xích Long. Ngày 16 tháng 3 năm 1916, tử hình thêm 13 người nữa, cũng tại địa điểm trên. Tổng cộng sau 2 lần bắn và 6 người đã chết trước, là 57 người.
*
Phong trào hội kín Nam Kỳ là một phong trào yêu nước tự phát, đã lôi cuốn đông đảo nông dân và dân nghèo thành thị tham gia, với mục đích chung là lật đổ chính quyền thực dân, lập lại chế độ phong kiến. Theo một số nhà nghiên cứu, thì hạn chế của phong trào là mang màu sắc huyền bí, mê tín; nên khi quân Pháp dùng súng đạn đàn áp thì lực lượng nổi dậy nhanh chóng tan rã. Tuy nhiên, nó đã biểu lộ được tin thần quật khởi của người dân ở miền Nam Việt Nam.
Bàn về hội kín Nam Kỳ, nhà văn Sơn Nam cũng đã viết rằng:
Thực dân vua cáo rằng thành phần của Thiên Địa Hội đa số là du đãng, có tiền án về trộm cắp...Họ không dám thú nhận rằng đầu não của hội lắm khi gồm những người yêu nước...Sau khi bị khủng bố (1916), các hội không còn hoạt động nhưng dư âm vẫn còn khá mạnh. Hội đã tạo ra một nếp sinh hoạt sâu đậm khá hấp dẫn, thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện ngoài đường, sống chết nhờ anh em, tận tình giúp đỡ bạn…Đó là đạo nghĩa giang hồ, là điệu nghệ giữa anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ...[7]

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Chú thích:
1. Phong trào Minh tân do Trần Chánh Chiếu đứng đầu, với ý muốn mở mang nền công thương cho nước, học tập văn hóa và khoa học phương Tây, chống thủ cựu và hủ tục....Theo Trần Văn Giàu thì đây là một phong trào chính trị tương đương với phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở đất Bắc, và hai bên có quan hệ với nhau.
2. Theo Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 2), tr. 200.
3. Trong số 111 người bị xử án trong vụ tấn công Sài Gòn năm 1913, có 93 người từ 20 đến 49 tuổi. Có 68 người làm ruộng, 23 làm công nhật. Đa phần là nghèo và ít học. Theo Sơn Nam, thì người Hoa kiều có 2 hội kín riêng. Một là nhóm Nghĩa Hưng, tục gọi là Kèo Xanh (đặc biệt tại làng Thới Thuận thuộc tổng Định Mỹ, nhiều tín đồ Thiên chúa giáo đã tham gia hội kín này), đa phần là người Hoa gốc Phúc Kiến. Từ nhóm này sau tách ra một chi nhánh là Hòa Xuân, tục gọi là Kèo Đỏ. Hai là nhóm Kèo Vàng, đa số là người Hoa gốc Triều Châu (Sơn Nam, Cá tính miền Nam, tr. 86-91). Kèo (theo nghĩa cột kèo) là cái vành của mui ghe. Cây kèo thứ nhất sơn màu gì thì biết họ thuộc nhóm nào.
4. Theo Trần Văn Giàu, sách đã dẫn, tr. 268.
5. Xem chi tiết trong Phong Trào Duy Tân Ở Bắc Trung Nam; Miền Nam Đầu Thế Kỷ 20: Thiên Địa Hội & Cuộc Minh Tân (nhà xuất bản Trẻ, 2003) và trong Cá Tính miềnNam (nhà xuất bản Trẻ, 1997). Cả hai sách đều của Sơn Nam.
6. Đồng Tập Trận là vùng đất dùng làm nơi luyện tập và diễu binh của quân đội nhà Nguyễn đầu thế kỷ 19. Khu vực rộng lớn này, nay là vùng đất hai bên đường 3 tháng 2 và Điện Biên Phủ thuộc quận 3 và quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Theo Cá tính miền Nam, tr. 85 và 93.
Sách tham khảo:
-Trần Văn Giàu, Lược sử Thành phố Hồ Chí Minh in trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập 1). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987
-Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
-Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1991.
-Sơn Nam, Cá tính miền Nam. Nhà xuất bản Trẻ, 1997

Thứ Sáu, 17 tháng 12, 2010

Tướng Hồ Văn Bôi và khu đền mộ họ Hồ ở Biên Hòa

1. Tiểu sử:

Hồ Văn Bôi (còn gọi là Hồ Văn Vui, ? - 1804), là võ tướng và là ngoại thích triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Ông Bôi là người ở Bình An, tỉnh Biên Hòa; nay thuộc quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Cha ông là Hồ Văn Vân, từ Nghệ An vào Nam lập nghiệp.

Ông Bôi xuất thân làm Túc trực đội trưởng, từng hai lần theo chúa Nguyễn Phúc Ánh lưu vong ở Vọng Các (Xiêm La, nay là Thái Lan).

Mùa thu năm Đinh Mùi (1787), ông theo chúa Nguyễn về Long Hưng (tục gọi Nước Xoáy, thuộc Sa Đéc).

Tháng Giêng năm Mậu Thân (1788), ông theo chúa Nguyễn kéo binh về Gia Định, đánh nhau với quân Tây Sơn, được thăng làm Thuộc nội Cai đội. Kể từ đó, ông xông pha nơi trận mạc cho đến khi nhà Tây Sơn bị đánh đổ năm Nhâm Tuất (1802).

Tháng 6 (âm lịch) năm ấy, chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tại Phú Xuân (Huế), lấy niên hiệu là Gia Long. Sau đó, Hồ Văn Bôi được thăng làm Tả thị trung Tả nhất Vệ úy, rồi đổi làm Khâm sai thuộc nội Chưởng cơ, quản lãnh Tả nhất vệ.

Nhưng chỉ hai năm, tức sau khi ông hộ giá vua Gia Long ra Bắc, ông xin cáo bịnh về hưu, rồi mất trong năm này (Giáp Tý, 1804)[1].

Năm Bính Dần (1806), con gái ông là Hồ Thị Hoa được chọn làm vợ Đông cung Nguyễn Phúc Đảm (sau là vua Minh Mạng, và bà là Tá Thiên nhân hoàng hậu).

Năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng (tức con rể ông Bôi) cho truy tặng ông Bôi là Nghiêm Vũ tướng quân, Thượng bộ quân Đô thống, và vợ ông làm Nhị phẩm phu nhân.

Năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị (tức cháu ngoại ông Bôi) truy tặng ông Bôi là Đặc tiến tráng Vũ tướng quân, Tả quân Đô thống phủ, Đô thống chưởng phủ sự, Thái bảo, tước Phúc Quốc công, thụy là Trung Dũng. Vợ chính ông là Huỳnh Thị Lành được truy phong là Nhất phẩm Phúc Quốc phu nhân, và cho truy phong họ Hồ đến 4 đời trước.

2. Khu đền mộ họ Hồ ở Biên Hòa:
Ngoài việc gia phong trên, vua Thiệu Trị còn sai người lập đền thờ họ Hồ ở xã Xuân Hòa (huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên) và ở xã Linh Chiểu Tây (huyện Nghĩa An, tỉnh Biên Hòa). Lúc bấy giờ, cả hai đều gọi là "Hồ tộc từ". Năm Nhâm Tý 1852), nhà vua Tự Đức (tức chắt ngoại ông Bôi) cho đổi tên nhà thờ ở Biên Hòa là "Dũ trạch từ".

Lo lắng các ngôi mộ và nhà thờ của họ Hồ ở Biên Hòa bị xâm hại, nên xưa kia (1863) vua Tự Đức đã cử Phan Thanh Giản sang Pháp thương thuyết việc chuộc đất, một phần cũng vì điều này. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, nỗi lo này một lần nữa đã thể hiện rõ ở điều 5 trong Hòa ước Giáp Tuất, trích:
...Mười một ngôi mộ của họ Phạm [2]...và ba ngôi mộ của họ Hồ ở trong lãnh vực làng Linh Chiểu Tây và Tân Mai (tỉnh Biên Hòa), không được bóc mộ, đào xới, xâm phạm hay đập phá. Sẽ cấp một lô đất rộng 100 mẫu cho các ngôi mộ nhà họ Phạm và một lô tương đương như thế cho nhà họ Hồ. Hoa lợi thu được trên các lô đất nầy được dùng để gìn giữ và bảo toàn các ngôi mộ và chu cấp các gia đình lo việc trông nôm các phần mộ. Các lô đất được miễn các thứ thuế và những người trong dòng họ Phạm, Hồ cũng sẽ được miễn thuế thân, khỏi thi hành quân dịch hay đi dân công…
.
Tuy nhiên khu đền mộ họ Hồ rộng lớn (khoảng 5.000 m2) xưa kia, ngày nay đã thành phế tích, và nằm lẫn trong khu dân cư ở quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Phần linh vị vợ chồng Hồ Văn Vân và linh vị vợ chồng Hồ Văn Bôi thì được người dân đưa vào thờ tại đình Linh Chiểu, quận Thủ Đức.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Chép theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 286). Sách Gia Định xưa chép ông Bôi mất năm 1806, tức ngay sau khi gả con gái cho Đông cung Nguyễn Phúc Đảm (tr. 71).
[2] Được gọi là Lăng Hoàng Gia, hiện ở xã Long Hưng, thị xã Gò Công. Ở đây có mộ của đại thần Phạm Đăng Hưng, cha của Thái hậu Từ Dũ.

Sách tham khảo chính:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2004.
-Huỳnh Minh, Gia Định xưa. Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin tái bản năm 2006.
-Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2010

Danh sĩ triều Lê mạt: Hồ Sĩ Đống

Hồ Sĩ Đống (1739 - 1785), tự Long Phủ, hiệu Dao Đình; sau đổi tên là Hồ Sĩ Đồng, tự Thông Phủ, hiệu Trúc Hiên. Ông là nhà thơ và là đại quan nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.

1. Tiểu sử:
Hồ Sĩ Đống sinh năm Kỷ Mùi (1739) ở xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An; nay là làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Ông thuộc dòng dõi Hồ Tông Thốc (sử gia đời Trần) và là cháu của Hồ Sĩ Dương (sử gia đời Lê).

Khoa Nhâm Thìn (1772) đời vua Lê Hiển Tông, Hồ Sĩ Đống đỗ Hội nguyên, rồi Đình nguyên hoàng giáp, được bổ chức quan.

Năm Giáp Ngọ (1774), ông được cử làm Bố chính Kinh Bắc. Nhưng không lâu sau, ông nhận lệnh trở về kinh đô Thăng Long, rồi sang làm án sát Hải Dương.

Căn cứ theo bài Tựa đề trong tập thơ Hoa trình khiển hứng của ông, thì năm Đinh Dậu (1777), ông được lệnh làm chức Phó sứ cống bộ. Đến tháng Giêng năm sau (Mậu Tuất, 1778), thì đoàn khởi hành [1].

Nhưng khi đến hồ Động Đình ở Hồ Nam, thì Chánh sứ Vũ Trần Thiệu (có sách ghi là Vũ Khâm Tự) cho mời hai thành viên trong đoàn là Hồ Sĩ Đống và Nguyễn Trọng Đang tới tiết lộ việc chúa Trịnh Sâm có làm tờ biểu riêng xin vua nhà Thanh sắc phong tước vương cho họ Trịnh. Sau khi hủy bản mật biểu và dặn dò mọi việc, viên Chánh sứ tự tử [2]. Thương tiếc người bạn trung nghĩa (với nhà Lê) ấy, ông có làm bài thơ viếng, sau được Phạm Đình Hổ chép lại trong quyển Vũ trung tùy bút.

Sang mùa thu tháng 8 (âm lịch) năm đó, đoàn đi sứ đến Yên Kinh (tức Bắc Kinh), đến tháng cuối mùa đông thì Hồ Sĩ Đống vâng chỉ dẫn đoàn trở về nước. Xét công lao, Hồ Sĩ Đống được phong chức Tả thị lang bộ Hộ.

Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, ủy quyền cho Huy quận công Hoàng Đình Bảo giúp Trịnh Cán lên ngôi. Không lâu sau, lính tam Phủ gốc ở Thanh - Nghệ (sử cũ gọi là kiêu binh) nổi dậy giết Đình Bảo và truất Trịnh Cán, lập Trịnh Khải lên ngôi.

Đoan Nam Vương (tức Trịnh Khải) bèn cho Hồ Sĩ Đống làm Hành tham tụng (tức quyền Tham tụng). Nhưng đến năm Giáp Thìn (1784), thì ông phải thôi chức để về thọ tang cha. Sau đó, ông được đổi sang ngạch quan võ, cai quản Tả uy cơ, rồi lần lượt trải chức Án sát Quảng Nam, Đốc thị Thuận Hóa.

Biết ông có tài năng, chúa Trịnh cho triệu ông về coi việc chính sự trong phủ. Buổi đầu, cử ông làm Đô chỉ huy sứ, sau thăng làm Tham đốc quyền phủ sự (ngang với chức Thượng thư), tước Ban quận công (trước đây, ông đã được ban tước Kinh Dương hầu, sau đổi là Ban Đình hầu) [3].

Năm Ất Tỵ (1785), Hồ Sĩ Đống qua đời, hưởng dương 46 tuổi. Truy thưởng công lao, ông được ban chức Hình bộ thương thư [4].

2. Tác phẩm:
Hồ Sĩ Đống đã để lại:
-Hoa trình khiển hứng (Cảm hứng tiêu khiển trên hành trình đi sứ Trung Hoa), còn có tên là Dao Đình sứ tập. Căn cứ theo bài Tựa do tác giả viết năm Kỷ Hợi (1779), thì tập thơ có hơn trăm bài thơ chữ Hán.
-Dao Đình thi tập (Tập thơ của Dao Đình)
Hiện trong Thư viện Khoa học xã hội (Hà Nội) có hai bản sách của Hồ Sĩ Đống, đó là Dao Đình sứ tập (ký hiệu A.515) và Dao Đình thi tập (ký hiệu A.1852). Theo Trần Văn Giáp thì Dao Đình thi tập là tập thơ chung cho tất cả các bài thơ của Hồ Sĩ Đống, còn Dao Đình sứ tập (hay Hoa trình khiển hứng) chỉ là tập thơ riêng làm trong dịp đi sứ năm Đinh Dậu (1777).

Ngoài ra, ông còn viết vài bài Tựa (trong đó có bài Tựa cho tập Sứ Hoa tùng vịnh của Nguyễn Tông Quai) và tấu khải, cũng đều bằng chữ Hán.

3. Nhận xét:
Trong “Lê quý dật sử” của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, người cùng thời với Hồ Sĩ Đống, có đoạn viết về ông như sau:
Tham đốc Ban quận công Hồ Sĩ Đống là người ôn hòa, bình dị, thi đỗ hoàng giáp, vâng mệnh đi sứ có công. Khi Tĩnh vương (Trịnh Sâm) còn sống, ông chưa được trọng dụng, nhưng lòng người đều kính phục đức vọng của ông. Đến thời Đoan Vương (Trịnh Khải), ông được thăng vọt lên chức Hình tham tụng…Đến khi ông ốm, chúa thường sai người thăm hỏi và ban cho chức tham đốc, lại ban tước Ban quận công...Ông mất, quân lính các đoan cơ thuyền đội ở kinh không ai là không thương xót. Ông Bùi Hành tụng (Bùi Huy Bích) có làm bài văn tế ông, trong đó có câu (dịch): "Kẻ sĩ đại phu có văn học, có đức độ, có phẩm vọng như ông ít lắm"…[tr. 57.].

Về thơ, ông được danh sĩ thời Nguyễn là Phan Huy Chú khen là "hồn hậu, phong nhã, có khái khái" và đã giới thiệu hai bài trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí, đó là Đăng Nhạc Dương lâu (Lên lầu Nhạc Dương), Đăng Hoàng Hạc lâu (Lên lầu Hoàng Hạc) [tr. 147].

Gần đây, trong Từ điển văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cũng đã có nhận xét khái quát về ông, trích:
Hồ Sĩ Đống là người cẩn trọng, bình tĩnh, giản dị, có tài văn chương. Sáng tác của ông thường là đề vịnh di tích, nhân vật lịch sử, đền miếu, phong cảnh ...trên dọc đường đi sứ. Nhìn chung, chúng đều có những nét tươi đẹp, uyển chuyển, do khả năng đổi mới của cảm xúc và cách thể hiện độc đáo của nhà thơ. Cùng với thơ đi sứ của Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn,...thơ Hồ Sĩ Đống góp phần tạo nên thể cách trầm hùng, nhuần nhã của thơ đi sứ thời Lê trung hưng [tr. 642].

4. Giới thiệu thơ Hồ Sĩ Đống:
Giới thiệu bài thơ duy nhất của Hồ Sĩ Đống được chép trong quyển “Vũ trung tùy bút”. Tác giả là Phạm Đình Hổ kể:
Đấng tiên đại cửu ta là Thượng thư công...Khi ấy (1777), ông đã ngoài 60, làm quan trong triều đã hơn 40 năm, cứ theo lệ cũ thì không phải đến lượt đi sứ nữa. Vậy mà trong triều không biết duyên cớ làm sao, chợt Trịnh Thịnh Vương (tức Trịnh Sâm) đòi ông vào Trung Hòa đường, mật đưa cho ông một tờ biểu sai sang sứ Trung Hoa cầu phong làm Phó quốc vương. Ông biết ý chúa Trịnh đã quyết nên không dám chối từ. Tháng 6 (1778), thuyền qua hồ Động Đình, ông chợt mắc bệnh, bèn mời Phó sứ là Hồ Sĩ Đống và Nguyễn Trọng Đang tới dặn bảo mọi công việc...Ông lại đưa tờ mật biểu ra đốt trước mặt hai sứ thần, và ngày mồng mười thì mất ở trên thuyền. Hồ công (Hồ Sĩ Đống) có thơ viếng rằng:

Hoàng hoa lưỡng độ phú tư luân,
Uyên đức kỳ niên cánh kỷ nhân.
Cộng tiễn bang giao nhân ngọc bạch,
Thùy tri tiên cốt lịch phong trần.
Sinh sô lệ sái đồng chu khách,
Tái bút danh qui tuẫn quốc thần [5]
Trù tướng thái hồ thu nguyệt sắc,
Dạ lai do chiếu ốc lương tần.
Dịch:
Mấy độ hoàng hoa sứ nước người,
Tuổi cao đức tốt ấy kìa ai?
Bang giao những tưởng ngọc nhà đẹp,
Tiên cốt nào hay gió bụi đầy.
Giọt lệ đồng châu đưa một lễ,
Tấm thân tuẫn quốc tiếng muôn đời.
Trăng thu mơ tưởng trên hồ nọ,
Thấp thoáng đầu nhà bóng lẩn soi.
[chép trong Vũ trung tùy bút, tr. 185-186]

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Tra sách Lịch triều hiến chương loại chí (phần Bang giao chí), thì chỉ thấy chép rằng: Năm thứ 38 (1777, ngang với năm Càn Long thứ 42 nhà Thanh), sai Chánh sứ Hoàng Bình Chính, Phó sứ Lê Hữu Dụng và Nguyễn Đương sang cống nhà Thanh. Chưa hiểu vì sao sách này và sách Lê quý ký sự đều không có thông tin gì về lần đi sứ của Hồ Sĩ Đống.
[2] Bùi Duy Tân gọi đây là việc xin "tiếm phong" (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 642). Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế chép rằng Vũ Khâm Tự chỉ là tùy viên. Ông này đã tiết lộ tờ mật biểu trước khi mất vì bạo bệnh. Tuy nhiên, không thấy chúa Trịnh hỏi han gì khi sứ bộ trở về (tr. 283).
[3] Theo Trần Văn Giáp (tr. 960). Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam chép ông được phong là Dao Đình hầu (tr. 283).
[4] Chép theo Bùi Dương Lịch (Lê quý dật sử, tr. 57) . Tuy nhiên, Trần Văn Giáp thì ghi là Công bộ thương thư (tr. 960). Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 283) lại ghi là Thượng thư bộ Binh, tước Ngọc quận công, nhưng cả hai đều không ghi rõ nguồn.
[5] Mặc dù ở đoạn văn trên ghi là mắc bệnh mất, nhưng chữ "tuẫn quốc" (liều chết vì đất nước) ở đây hàm ý nói rằng viên Chánh sứ đã tự tử. Nhà nghiên cứu văn học Bùi Duy Tân ghi rõ là tự tử (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 642).

Sách tham khảo:
-Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử (Phạm Văn Thắm dịch). Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 1987.
-Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (Tập 3). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút (bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến). Nhà xuất bản Trẻ và Hội nghiên cứu giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Tập 1 và Tập 2 in chung). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
-Bùi Duy Tân, mục từ Hồ Sĩ Đống trong Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.

Thứ Bảy, 11 tháng 12, 2010

Danh sĩ nhà Hậu Lê: Nguyễn Tông Quai

Nguyễn Tông Quai (trước đây có sách viết là Nguyễn Tông Khuê, 1692 – 2 tháng 4 năm 1767) [1], hiệu Thư Hiên; là nhà giáo, nhà thơ và là đại quan nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.
Ông cùng với Đoàn Trác Luân (anh trai nữ sĩ Đoàn Thị Điểm), Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân được người đời xưng tặng là Trường An Tứ hổ hay Trường An tứ tài.


1. Tiểu sử:
Nguyễn Tông Quai là người ở xã Phúc Khê, huyện Ngự Thiên, phủ Thái Bình (nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Lúc nhỏ, theo cha mẹ lên sống ở Thăng Long (Hà Nội), từng là Giám sinh trường Giám và theo học Thám hoa Đình nguyên Vũ Thạnh (1664 - ?). Nhờ chăm học, ông sớm nổi tiếng là người hay chữ khắp vùng.

Khoa Tân Sửu (1721) đời vua Lê Dụ Tông, Nguyễn Tông Quai thi đỗ Hội nguyên Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), được bổ làm quan ở Viện hàn lâm. Sau đó, ông lần lượt trải chức Thừa chính sứ Kinh Bắc và Đốc đồng Tuyên Quang.

Năm 1734, ông được cử đi đón sứ giả nhà Thanh (Trung Quốc) sang sắc phong.

Năm 1742, ông được cử làm Phó sứ (Chánh sứ là Nguyễn Kiều, chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm), sang Yên Kinh (tức Bắc Kinh).

Năm 1745, ông trở về nước được thăng làm Tả thị lang bộ Hình, tước Ngọ Đình hầu. Nhưng chỉ ít lâu sau, ông bị vu cáo, bị giáng chức, dẫn việc phải bỏ quan về nhà.

Năm 1748, Nguyễn Tông Quai được triệu về kinh, cho khai phục chức cũ, và được cử làm Chánh sứ dẫn đoàn sang Yên Kinh lần thứ hai.

Năm 1750, ông trở về nước, được làm Tả thị lang bộ Hộ. Cũng vì ông vốn tính ngay thẳng, ghét sự tà vạy, không kiêng tránh, nể nang...nên không được lòng một số quan đồng triều. Một lần, ông bị Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc mượn chuyện đàn hặc, mà bị giáng xuống làm Hàn lâm thị độc, rồi sau đó bị truất bỏ.

Về làng, ông mở trường dạy học. Học trò ông có nhiều người thanh danh, trong số đó có Lê Quý Đôn, Đoàn Nguyễn Thục...

Nguyễn Tông Quai mất tại quê nhà ngày 4 tháng 3 năm Đinh Hợi (1767).

2. Tác phẩm:
Tác phẩm của Nguyễn Tông Quai có:
-Sứ Hoa tùng vịnh (Chùm thơ vịnh trên đường đi sứ Trung Hoa), hiện có rất nhiều dị bản. Đây là tập thơ gồm khoảng 200 bài thơ chữ Hán, xướng họa cùng Chánh sứ Nguyễn Kiều. Ngoài 6 bài Tựa (trong đó có sứ giả Triều Tiên Lý Bán Thôn, tức Lý Tông Lâm và danh sĩ Việt Nam là Hồ Sĩ Đống ), Bình ở đầu tiền, hậu tập, phần cuối của thi phẩm là ngót trăm bài thơ xướng họa tặng đáp với nhân sĩ Trung Quốc (như Trương Hán Chiêu, Âu Dương Vượng, Vương Văn Tường,..) và sứ giả Triều Tiên Lý Bán Thôn. Nhiều bài thơ trong tập thanh cao, diễm lệ, hài hòa, giữa thơ và họa, cân đối giữa tình và ý, rất điêu luyện về mặt dùng chữ đặt lời, về cách phối hợp các hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh...được nhiều danh sĩ trong và ngoài nước khen [2].

-Sứ trình tân truyện (Truyện mới về lộ trình đi sứ). Đây là một tác phẩm có tính chất ký sự, gồm 670 câu thơ lục bát chữ Nôm và một số thơ Nôm làm theo Hàn luật. Nội dung là ghi lại tâm tư, cảm xúc, ngâm vịnh về danh lam thắng tích, sơn kỳ thủy tú của tác giả trên dặm dài từ Thăng Long đến Yên Kinh (Bắc Kinh) trong lần đi sứ lần thứ nhất (1742 – 1745). Giữa mạch lục bát, có xen vào 8 bài thơ Nôm Đường luật, được nhiều nhà nghiên cứu văn học xem là một chùm thơ đẹp.

-Ngũ luân tự (Thuật lại năm điều luân thường), gồm 646 câu thơ Nôm song thất lục bát.

Ngoài ra, Nguyễn Tông Quai còn cùng với Nguyễn Trác Luân, Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Luân làm ra quyển Vịnh sử thi tuyển (Quyển thơ vịnh sử) gồm 334 bài thơ chữ Hán, đề vịnh các thắng cảnh, sự tích, danh nhân...Trong quyển này, phần Nguyễn Tông Quai có 80 bài thơ.

*
Nguyễn Tông Quai có những trang rất đẹp miêu tả cảnh vật đất nước và khí thế của dân tộc, có những dòng chân thực và đầy tình nhân ái khi thể hiện tình cảm của một sứ thần.

Tập Sứ trình tân truyện và số thơ Nôm Hàn luật của ông, chứng tỏ ông là nhà thơ khai sáng dòng ca Nôm sứ trình, là cây bút thể hiện tâm chí ái quốc và bản lĩnh văn hóa Vô tốn bất dị (không kém, không khác so với văn hóa Trung Hoa) của sứ thần Đại Việt trên đất nước Đại Thanh. Tập Sứ Hoa tùng vịnh được sứ giả Triều Tiên và nhân sĩ Trung Quốc khen tặng là không thua kém thơ thời thịnh nhà Đường. Dư luận trong nước cũng từng đánh giá cao tài thơ của ông. Ngô Thì Sĩ khen ông là “lừng tiếng thơ hay khắp cõi”, còn Phan Huy Chú thì khen ông là “điêu luyện, mới mẻ, đáng ưa”..

Tóm lại, Nguyễn Tông Quai với tư cách một sứ thần không những đã hai lần hoàn thành trọng trách của một nho thần trung tâm ái quốc, mà còn để lại hai giai tác Sứ trình tân truyện và Sứ Hoa tùng vịnh, tiêu biểu cho thơ văn bang giao thời Lê Trung hưng.

Giới thiệu một trong số bài thơ tiêu biểu của ông:
Thái Thạch hoài Thanh Liên (đến ghềnh Thái Thạch, nhớ Thanh Liên Lý Bạch):
Phiên âm:
Bích thủy, thanh sơn, nhất diệp thuyền,
Càn khôn ký ngạo tứ phiêu nhiên.
Ẩm tàn giang quốc thiên ba nguyệt,
Ngâm động tinh hà ngũ dạ thiên,
Tẩu mã trần phao kim điện khách,
Kỵ kình lữ túy bích cung tiên.
Cao phong cảnh ngưỡng sơn đình cổ,
Nhật mộ giang vân tỏa thúy yên.

Dịch thơ:
Con thuyền lơ lửng, nước non xanh,
Gửi giữa càn khôn một mảnh tình.
Uống cạn sông trăng ngàn lớp sóng,
Ngâm động tinh hà suốt năm canh.
Bụi mờ kinh khuyết buông cương ngựa,
Bạn với tiên cô sẵn cá kình.
Nhớ tới người xưa đình cổ đó,
Chiều về, mây phủ khói sông quanh.


3. Thông tin liên quan:
Nhà thờ Nguyễn Tông Quai hiện ở tại xóm Dinh, thuộc làng Sâm, xã Hòa Tiến, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đây chính là quê gốc của Nguyễn Tông Quai. Năm 1993, kỷ niệm 300 năm ngày sinh của Nguyễn Tông Quai, Sở Văn hóa và thể thao Thái Bình kết hợp với Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ông tại huyện Hưng Hà.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Chép theo Bùi Duy Tân (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1195). Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam ghi và Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam đều ghi Nguyễn Tông Quai mất năm 1766. Cũng theo Bùi Duy Tân thì ông chép là Quai (乖) bởi căn cứ theo bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám và một số tập sử truyện khác, trong đó có Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (Văn tịch chí, tr. 134).

[2] Trích một vài lời khen "Sứ Hoa tùng vịnh" của các danh sĩ trong nước: Là "điêu luyện, mới mẻ, đáng ưa" (Phan Huy Chú. "Đến nay trải hơn năm mươi năm, người trong nước vẫn đều truyền tụng" (Nguyễn Án). "Sứ Hoa tùng vịnh lừng tiếng là thơ hay khắp cõi” (Ngô Thì Sĩ). Còn Hồ Sĩ Đống thì buồn vì không được thụ giáo Nguyễn Tông Quai, khi được đọc tập thơ này thì mừng, xem đó "cũng là mối nhân duyên gặp gỡ".

Sách tham khảo:
-Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (Tập 3). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Tập 1 và Tập 2 in chung). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
-Bùi Duy Tân, mục từ Nguyễn Tông Quai trong Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Nguyễn Thạch Giang (chủ biên), Văn học thế kỷ 18. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
-Việt Anh-Cao-Lê Thu Hương, Chuyện kể các nhà khoa bảng trong lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Thanh Niên, 2010.
-Chu Xuân Giao, Đi tìm căn gốc cho danh xưng của tác giả "Sứ Hoa tùng vịnh" Khuê hay Quai?, Tạp chí Hán Nôm tháng 1 năm 1994.

Thứ Năm, 9 tháng 12, 2010

Muộn (bài 3)

Thiếu hơi
Không thể cất lên trời
Quả bóng nằm lăn lóc
Giữa phố xá thấp cao, ngổn ngang bủa chặt
Người, bụi và xe …

May còn chút gió, chút mây
Chút nắng trên thềm rêu cũ
Đủ cho gã
Thầm mơ căn hộ,
Một bờ vai để nhỏ lệ mình.

Hình như vẫn còn gì đó thẫm xanh
Luôn thao thức trong trái tim lầm lạc
Kịp hiểu bạc tiền không thể mua hạnh phúc,
Ngẩng lên,
Trăng khuyết quá vành.

Đã lâu
Chẳng ai thèm nói với gã tiếng : yêu anh .
Đành vét túi …những mong chiều đỡ quạnh
- Không còn hoa tươi…
Câu trả lời bỗng như dao nhọn
Cứa tim. Khi bấc chuyển mùa …

Đêm
Bên hoa giả
Có người không trẻ - làm thơ
Bằng nước mắt thật !…

Bùi Thụy Đào Nguyên
(trích Thơ Muộn, đã xuất bản)

Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765 - 1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt - Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt xem là một “Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là “Danh nhân văn hóa thế giới”.

1. Cuộc đời:
Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội); sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).

Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp Tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê...Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.

Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.[1].

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi).

Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Vậy là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.

Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.

Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.

Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ [2], quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).

Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:

Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.

Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.

Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.

Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.

Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.

Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820.

Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).

Và theo GS. Trương Chính thì một phần cuộc đời của Nguyễn Du được phân ra mấy giai đoạn như sau:
-Năm 1786 cho đến khoảng đầu năm 1796, là giai đoạn “Mười năm gió bụi”.
-Năm 1796 cho đến năm 1802 là giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”.
-Năm 1802 đến cuối năm 1804 là giai đoạn “Ra làm quan ở Bắc Hà”...(Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 15-16)

2. Tác phẩm:
2.1 Tác phẩm bằng chữ Hán:
Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:

-Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
-Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
-Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Nhận xét về mảng thơ này, Ngữ văn 10 (Tập 2) viết:
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài thơ trong "Thanh Hiên thi tập" và "Nam trung tạp ngâm" tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi...[tr. 94]

2.2 Tác phẩm bằng chữ Nôm:
Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:

-Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đan đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc.

Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn".

-Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.

-Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.

-Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An, sau bị quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.

Xét chung về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.). Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”

Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.”

Và để hiểu được phần nào nỗi lòng của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu văn học thường dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền và các tác phẩm của ông (đặc biệt là Truyện Kiều) để rút ra một số nhận định. Tuy nhiên, những nhận định ấy đến nay vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau một cách sâu sắc. Bởi vậy chỉ có thể tạm kết luận rằng:
Nguyễn Du là một con người suy nghĩ nhiều về cuộc sống đương thời, có thái độ yêu ghét khá rõ trước cái tốt cái xấu, nhưng không sao thoát khỏi buồn phiền vì không giải thích nổi cuộc đời và không biết phải làm thế nào để thay đổi cuộc đời đó [Văn học 11, Nxb Giáo dục, 1981, tr.24].

Chú thích:
[1] Thứ tự như sau: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ (hơn Nguyễn Du 4 tuổi), Nguyễn Du, Nguyễn Ức (kém Nguyễn Du 2 tuổi) và Nguyễn Thị Niên. Năm 1775, người con đầu của bà Tần mất, mới 18 tuổi, năm sau chồng mất, hai cái tang liền làm cho bà đau buồn rồi lâm bệnh mất ngày 27 tháng 7 năm 1778, khi mới 39 tuổi (theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr 19; và Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1120.)
[2] Vợ Nguyễn Du, sách Ngữ văn 10 không ghi tên, chỉ cho biết là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Khi đến sống ở đây, vài tác giả như Phạm Thế ngũ (sách ghi bên dưới, tr. 349) cho biết Nguyễn Du có mưu chống lại Tây Sơn, nhưng việc không thành nên bỏ về Nghệ An. Nhưng theo Từ điển văn học, căn cứ vào những sáng tác viết vào khoảng thời gian này trong Thanh Hiên thi tập, thì hình như Nguyễn Du chủ yếu là trốn tránh để giữ mình, chứ không có âm mưu chống đối gì.
[3] Ngày tháng Nguyễn Du mất ghi theo Ngữ văn 10 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2008, tr.93). Còn Văn học 11 tập I (Nxb Giáo dục, 1981, tr 23), Từ điển Văn học (bộ mới, sách đã dẫn, tr.1120) đều cho biết đó là ngày 16 tháng 9 năm 2008.

Sách tham khảo:
-Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
-Ngữ văn 10 (Tập 2). Nxb Giáo dục, tháng 5 năm 2008.
-Thơ chữ Hán Nguyễn Du (phần giới thiệu của Trương Chính). Nxb Văn học, 1978
-Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển 2). Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1963.
-Thạch Trung Giả, Văn học phân tích toàn thư. Nxb Lá Bối, 1973.
-Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển Thượng). Nxb Trình Bày, Sài Gòn, 1967.

Phụ lục:
Trích một số ý kiến viết về nỗi lòng của Nguyễn Du:
-Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:
Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra rằng ''Truyện Kiều chứa đựng một tâm sự tha thiết nhất của Nguyễn Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng thần nhớ chúa cũ (hoài Lê)''. Thuyết trên không phải là điều bị đặt mà có sở cứ rõ ràng. Thái độ phò Lê của ông được tỏ rõ trong những mưu toan chống Tây Sơn. Về sau, bất đắc dĩ phải ra hợp tác với Nguyễn, ông thường tỏ ra kín đáo, nếu không nói là lãnh đạm, lúc nào cũng như mang nặng trong lòng một bầu u uất khó nói. Nỗi lòng ấy chỉ có thể là, như lời ai điếu của Bùi Kỷ trong bài ''Truy điệu cụ Tiên Điền'' vào năm 1927:
Dở dang thay cái tu mi.
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền

Hành vi của tác giả chứng tỏ, mà văn chương của tác giả nhiều khi cũng hé lộ rõ ràng. Nhiều bài thơ chữ Hán của ông trong Thanh Hiên tập, Bắc hành tập, đầy ý điếu cổ thương kim, giọng khảng khái bi đát. Cho đến bao nhiêu câu trong chính Truyện Kiều'' tả thân thế người con gái lưu lạc cũng gióng lên tiếng đau buồn ấy của tác giả..."(tr. 360)

-Năm 1967, GS. Thanh Lãng viết:
Anh em Nguyễn Du đã từng cầm quân ủng hộ nhà Lê, tỏ ra khí phách hơn người. Nhưng công việc không thành, nhà chính trị trẻ tuổi (Nguyễn Du) bỏ về quê, lấy thú chơi săn bắn ở núi Hồng Lĩnh...Và như phần đông nho sĩ đương thời, ông cho cái đời làm quan dưới một triều đại mới là một trạng thái “thất tiết”, thành ra suốt đời lúc nào ông cũng buồn rầu, ân hận..."(tr. 612)

-Năm 1973, nhà phê bình Thạch Trung Giả viết:
Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của người dồn phải dồn vào thế hàng thần. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du là một con người có khí tiết nên đã từng mưu sự cần vương chống Quang Trung. Đến khi nhà Tây Sơn đổ vì nhà Nguyễn, đám cố Lê hết chính nghĩa để chống lại, nhưng những người như Nguyễn Du vẫn không quên mình và ông cha mình đã từng ăn lộc nhà Lê. Vậy việc phải làm tôi cho Gia Long là một vạn bất đắc dĩ, một sự đau lòng, một sự tủi nhục...(tr. 370)

Năm 1978, GS. Trương Chính viết:
Đọc ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta có thể giải quyết được một vấn đề trước nay ý kiến rất phân tán: thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại. Trong một thời gian khá dài, từ khi Tây Sơn ra Bắc hà (1786) cho đến khi Tây Sơn thất bại (1802), rõ ràng Nguyễn Du có "tính việc phục quốc" (phù Lê).

Nhưng những chiến thắng của Quang Trung năm 1789 đã làm cho nhiều người có tư tưởng chống Tây Sơn khiếp đảm. Do đó, Nguyễn Du bi quan, chán nản. Tuy vậy, đến khi ông trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng Lĩnh, chí ''phục quốc'' vẫn chưa nguôi. Thế là, theo ''Gia phả'', ông toan vào Gia Định giúp chúa Nguyễn Ánh." Gia phả chép: Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), vua Cao Hoàng (tức Gia Long) đi ra Nghệ An. Ông (Nguyễn Du) đón xe yết kiến vua và được đem thủ hạ đi theo ra Bắc. Mùa thu tháng 8 năm ấy, ông được bổ tri huyện huyện Phù Dung.

Về điểm này, Đại Nam chính biên liệt truyện chép hơi khác: Đến khi có lệnh (Gia Long) gọi, không thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra. Ở đây, chưa bàn Gia phả hay Liệt truyện chép đúng, nhưng cũng như một số nhà nho đương thời, thái độ của Nguyễn Du đối với nhà Nguyễn có khác hơn đối với Tây Sơn. Nghĩa là những cựu thần nhà Lê này vẫn có thể ra phò giúp mà lương tâm không cắn rứt.

Nhưng tại sao Nguyễn Du được nhà Nguyễn tin dùng mà thái độ hình như là bất đắc chí. Sách Đại nam chính biên liệt truyện cho biết "Đối với nhà vua thì ông chỉ giữ hết bổn phận, chứ không hay nói năng điều gì khiến có khi bị nhà vua quở trách"...
Qua những bài thơ trong Nam trung tạp ngâm, kể cả những bài thơ làm trong khi đi sứ, quanh quẩn chỉ bấy nhiêu ý: ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những người cầu phú quí công danh, nhớ nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về yên nghĩ, cho đời là một cuộc bể dâu...Nghĩa là Nguyễn Du đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của quần chúng bị áp bức, đã thấy được cái mục nát, tàn khốc trong triều đình nhà Nguyễn, cho nên ông đã gửi tâm sự vào hai câu thơ:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(lược theo bài Giới thiệu của giáo sư in trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 29 và 48)

-Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), xuất bản năm 2004, viết:
Có một điều lạ là Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu Thống, và như một số tài liệu nói, ông từng có ý định chống nhà Tây Sơn; nhưng trong các sáng tác của ông, những thái độ này rất mờ nhạt. Trong khi những người khác có hàng tập thơ khóc vua Lê thì ông chỉ ít nhiều rõ nét trong mỗi bài My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù) và đả kích nhà Tây Sơn, thì Nguyễn Du không có một bài nào đả kích. Với nhà Nguyễn, ông được trọng vọng, mà trong thơ ông có cái gì như chán chường nhà Nguyễn. Cũng giống như Thanh Hiên thi tập, trong Nam Trung tạp ngâm, chưa bao giờ Nguyễn Du nói rõ cái tâm sự thật của mình; rải rác đây đó, trong thơ chỉ thấy ông than thở cuộc đời là đáng buồn, đáng chán, là vô nghĩa, là bãi bể nương dâu.

Trong Bắc hành thi tập, nhà thơ có viết về Thăng Long (2 bài) để nói lên những đổi thay đáng buồn của một đế đô. Tuy bài thơ toát lên một tình cảm "nhớ cổ, thương kim" da diết, mông lung , nhưng khó có thể nói đây là bài thơ nhớ nhà Lê được. Còn ở Long thành cầm giả ca, thì bài thơ không có tí gì gọi là thù địch với nhà Tây Sơn, mà trái lại, trong khi thương xót cho số phận của người ca nữ, nhà thơ lại có vẻ như ngậm ngùi cho sự sụp đổ của triều đại trên...Thái độ của ông như thế nào, thật hết sức khó hiểu. (tr. 1122)

Thứ Hai, 6 tháng 12, 2010

Giới thiệu tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ


Ảnh chụp sách Tân biên truyền kỳ mạn lục

Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ) là sáng tác duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ, sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời Tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm, và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút". Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)...đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm này.

1. Thời điểm & nguyên nhân:
Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh Hóa.

Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước...Cho nên Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16...

2. Giới thiệu sơ lược:
Tác phẩm gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục, hình như Nguyễn Dữ muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Tuy nhiên, cũng theo Bùi Duy Tân, căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán.

Giới thiệu sơ lược nội dung, Trần Thị Băng Thanh viết:
Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục.
Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp.
Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật...[1]

Mở đầu tác phẩm là lời tựa của Hà Thiện Hán và Nguyễn Lập Phu. Hai mươi truyện trong Truyền kỳ mạn lục bao gồm:
-Câu chuyện ở đền Hạng vương (Hạng vương từ ký)
-Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (Khoái Châu nghĩa phụ truyện)
-Chuyện cây gạo (Mộc miên thụ truyện)
-Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Trà đồng giáng đản lục)
-Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây (Tây viên kỳ ngộ ký)
-Chuyện đối tụng ở Long cung (Long đình đối tụng lục)
-Chuyện nghiệp oan của Đào Thị (Đào Thị nghiệp oan ký)
-Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục)
-Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (Từ Thức tiên hôn lục)
-Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào (Phạm Tử Hư du thiên tào lục)
-Chuyện yêu quái ở Xương Giang (Xương Giang yêu quái lục)
-Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na (Na sơn tiều đối lục)
-Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Đông Triều phế tự lục)
-Chuyện nàng Thúy Tiêu (Thúy Tiêu truyện)
-Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang (Đà Giang dạ ẩm ký)
-Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tử lục)
-Chuyện Lý tướng quân (Lý tướng quân truyện)
-Chuyện Lệ Nương (Lệ Nương truyện)
-Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Kim Hoa thi thoại ký)
-Chuyện tướng Dạ Xoa (Dạ Xoa bộ soái lục)

3. Đánh giá:
Trích ý kiến của Bùi Duy Tân:
Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới…
Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến…
Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian [2].
Đúc kết lại, trong 20 truyện, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người... Giá trị lớn của Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Trích Lời tựa của Bùi Duy Tân và Trần Thị Băng Thanh (Truyền kỳ mạn lục, bản điện tử, không rõ nhà xuất bản & năm xuất bản)
[2] Theo Từ điển Văn học (bộ mới), tr. 1125.

Sách tham khảo:
-Từ điển Văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004. Mục từ do Bùi Duy Tân soạn (tr.1124-1125).
-Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện. NXb Trẻ & Hội Nghiên cứu giảng dạy văn học TP. HCM, in lại năm 1988.
-Tạ Ngọc Liễn, Danh nhân văn hóa trong lịch sử. Nxb Thanh Niên, 2008.

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2010

Chợ Thủ ở An Giang

Chợ Thủ là một địa danh ở xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang (Việt Nam), trên đoạn đường từ thị trấn Mỹ Luông đến thị trấn Chợ Mới.

1. Tên gọi:
Theo nhà văn Sơn Nam thì dịa danh Chợ Thủ là tên gọi tắt của Chiến Sai thủ sở, nằm ở phía tây sông Trà Thôn. Thủ là vì nơi đây có đón đồn (thủ là đồn quân có nhiệm vụ kiểm soát sông rạch). Chiến Sai là vì người dân Khmer gọi nơi đây là Kiến Sai (Kiên Svai), theo nghĩa là chòm cây xoài, nói trại ra là Chiến Sai. Đến đời Minh Mạng, Thủ Chiến Sai đổi tên là bảo An Lạc. Ngoài ra nơi đây còn được gọi là Củ Hủ, Cù Hu hay Cỗ Hỗ.

2. Lịch sử:
Năm 1700, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã cho đình binh (trú quân) tại tả ngạn sông Hậu (cồn Cây Sao, sau được gọi là Cù lao Ông Chưởng), trước khi qua sông Tiền, trút hơi thở cuối cùng tại Sầm Giang (Rạch Gầm, Mỹ Tho) vào năm đó. Số quân sĩ của Nguyễn Hữu Cảnh là những người Việt mang từ miền Trung vào, họ bắt đầu châm rễ tại những vùng đất mới, trong số đó có vùng Chợ Thủ.

Cũng theo Sơn Nam, thì Chợ Thủ là một vị trí chiến lược. Nó cùng với đạo Hùng Ngự (nay là Hồng Ngự) và Tân Châu là 3 cứ điểm quan trọng để coi giữ vùng Cù lao Giêng, lỵ sở của đạo Tân Châu [1]. Nhờ có đồn (thủ) từ xưa, nên nơi đây phát triển sớm hơn Chợ Mới (gọi Mới là vì mới thành lập sau khi Pháp đến). Và nhờ có gỗ súc từ Campuchia đưa về trạm kiểm lâm Tân Châu với chi phí tương đối nhẹ, cộng với tay nghề khéo léo, khiến Chợ Thủ phát triển ngành mộc, đủ sức cạnh tranh với hàng mộc từ Lái Thiêu (Bình Dương) và Biên Hòa đưa xuống. Bên cạnh nghề mộc, theo Nguyễn Liên Phong, thì người dân ở đây còn thành thạo nghề ươm dệt.

Và cũng vì có có vị trí chiến lược, mà nơi đây đã xảy ra một trận thủy chiến (hỏa công) ác liệt vào đầu năm Giáp Ngọ (1834). Theo sử liệu thì vào cuối năm Quý Tỵ (1833), sau khi nhận lời cầu viện của Lê Văn Khôi, thủy quân Xiêm tiến đến Thuận Cảng (sông Vàm Nao). Bị tướng Trương Minh Giảng chỉ huy chận đánh, nên họ phải rút lui. Nhưng tháng sau, tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834), họ lại tràn xuống, theo Sông Tiền. Quân Việt lui đến rạch Cỗ Hỗ (Chợ Thủ) thì đánh tan được quân Xiêm, buộc họ phải lui về giữ phủ Ba Cầu Nam thuộc Chân Lạp. Sau đó, quân Xiêm lại tổ chức tấn công. Tướng Trương Minh Giảng lại cho quân lui về Cổ Hỗ, đóng đồn hai bên bờ, cố phòng thủ.

Sử nhà Nguyễn chép:
Giặc Xiêm dẫn binh thuyền hơn trăm chiếc, từ Thuận Cảng xuống, bày ngang giữa dòng sông, ngày đêm dùng đại bác bắn phá quân ta. Ta chờ quân chi viện, nhưng giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối, thừa lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng lửa đốt thuyền quân ta, rồi giặc đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh... Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, chém kẻ cầm đầu của giặc là Phi Nhã Khổ Lặc. Quân giặc chết nhiều, thây chồng lên nhau. Giặc liền lui. Ngài (vua Minh Mạng) xuống dụ ban khen... Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1834), phong Thống chế Phạm Hữu Tâm tước Tân Phúc nam để tỏ rõ công đánh giặc Xiêm ở Thuận Cảng và ở Chiến Sai [2].
Sau lần đại bại này, quân Xiêm tháo chạy hết về nước.

3. Trong thơ ca:
Trong Nam Kỳ phong tục diễn ca (1909) của Nguyễn Liên Phong có đoạn mô tả Chợ Thủ như sau:
Thủ Chiến Sai, xứ quê mùa,
Nhơn dân đông đảo, miếu chùa nghiêm trang.
Trại cưa dãy dọc, dãi ngang,
Chuyên nghề ươm dệt cả làng thói siêng.
Nam phụ (lão ấu) nội thôn (Tú Diền),
Đều là biết dệt nghề riêng trong nhà.
Xung quanh mấy chỗ gần xa,
Mua hàng chợ Thủ, tiếng đà xưa nay.
Trời sanh phong thổ cũng hay,
Trên tơ lụa đủ, dưới cây ván nhiều.
Công dung ngôn hạnh mỹ miều,
Gái hay thêu dệt, người đều thanh thao...


Chính vì nết đẹp này, mà ở Nam Bộ còn lưu truyền câu:
Thủ Thiêm, Thủ Đức, Bến Lức, Thủ Đoàn,
Anh phải lòng nàng tại Thủ Chiến Sai.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Cù lao Giêng, trước có tên là Doanh Châu. Tên Khmer là Koh Teng. Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho thành lập Tân Châu đạo thì tướng Trương Phước Du đã cho đặt thủ sở chính tại đây để coi quản đạo này và để tiếp ứng với đạo Châu Đốc và đạo Đông Khẩu (Sa Đéc).
[2] theo Quốc triều chính biên toát yếu (tr. 215 và 241) và Minh Mạng chính yếu (dẫn lại theo Sơn Nam, Lịch sử An Giang , tr. 10).

Sách tham khảo chính:
-Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Quốc triều sử toát yếu. Nhà xuất bản Văn học, 2002.
-Sơn Nam, Lịch sử An Giang. Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang, 1988.
-Phan Văn Kiến, Lịch sử địa phương An Giang. Nhà xuất bản Giáo dục, 2009..

Nghề mộc ở Chợ Thủ

Thứ Tư, 1 tháng 12, 2010

Bé Ti Ti

Bé Ti Ti lúc lên 5 tuổi.

Bên mồ những người thân


Bên mồ những người thân

Bên những nấm mồ quạnh vắng
Tôi thầm nghĩ cõi xa kia.
Cõi ấy có nhiều mưa nắng,
Có ai mỏi gánh đi, về?

Cõi ấy lá vàng có rụng
Ngày xuân hoa trái có hồng
Bướm nhỏ có vờn đêm mộng,
Hay hồn chao giữa mưa giông?

Sao chẳng theo mùa trở lại
Hỡi anh và chúng bạn thân?
Lẽ đâu “mất” là kết thúc,
Tan trong bóng tối vĩnh hằng.

Lẽ đâu “đi” là biến đổi
Thay vai, khác cả cảnh đời
Xóa hết những gì thương nhớ,
Quên người bạn diễn buồn vui.

Để ai với phông màn cũ
Mở hay khép cũng bẽ bàng
Cơm áo vây đời khốn khổ,
Khóc cười theo ý vua quan...

Bùi Thụy Đào Nguyên