Phan Văn Thúy (? - 1883) là danh tướng nhà Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam.
Một trong số công lao nổi bật của ông, đó là việc chỉ huy khai đào sông Vĩnh
Định ở Quảng Trị vào năm 1825.
Thân thế và sự nghiệp:
Ông là người huyện Đăng Xương
(1884, đổi là Thuận Xương) [1], thuộc phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị [2]. Lớn
lên, không rõ năm nào, ông theo chúa Nguyễn vào Gia Định, rồi từng được bổ làm
Khâm sai thuộc nội Cai đội quân Thần Sách, Vệ úy vệ Hổ uy.
Sau khi nhà Tây Sơn bị đánh
đổ, năm Gia Long thứ 2 (Quý Hợi, 1803), thăng ông làm Hữu doanh Vệ úy, Khâm sai
Chưởng cơ, coi quân bản doanh. Chẳng lâu sau, ông nhận mệnh "theo thủy
quân của Đô thống chế Thái hòa hầu, ngồi thuyền Hải Đạo, đến địa phương Bắc
Thành tiểu trừ giặc biển"[3].
Năm Gia Long thứ 14 (Ất Hợi,
1815), cử ông làm Lưu thủ doanh Quảng Bình. Sau, có tội, ông bị biếm xuống Cai
cơ [4].
Năm Minh Mạng thứ nhất (Canh
Thìn, 1820), thăng ông làm Chưởng cơ, rồi lại thăng làm Phó Đô thống chế doanh
hậu quân Thần Sách, lãnh nhiệm vụ Phó Đốc trấn Thanh Hóa.
Năm Minh Mạng thứ 6 (Ất Dậu,
1825), cử ông coi việc đào sông (kênh) Vĩnh Định ở Quảng Trị. Theo Quốc triều
sử toát yếu, thì công việc khởi sự vào tháng 3 (âm lịch) năm ấy. Sử thần chép:
"Vì lúc bấy giờ các trấn lâu không mưa, giá gạo hơi cao, triều đình bàn
khởi việc công dịch để lấy tiền nuôi dân. Sông đào xong, tùy bậc thưởng cấp"
[5]. Xong việc, cất ông làm Phó Đô thống chế thị nội doanh Long Vũ.
Năm Minh Mạng thứ 8 (Đinh
Hợi, 1827), lại cho ông kiêm quản Tòa Thương Bạc. Tháng 5 (âm lịch) năm đó,
quân Xiêm La (Thái Lan ngày nay) đánh lấy nước Vạn Tượng (Lào ngày nay), khiến
vua nước ấy là A Nỗ phải chạy sang Việt Nam cầu cứu. Vua Minh Mạng liền cho
Phan Văn Thúy sung chức Kinh lược biên vụ đại thần kiêm lĩnh Trấn thủ Nghệ An
để lo việc.
Năm Mậu Tý (1828), ông cùng
Phó tướng Nguyễn Văn Xuân, Tham tán Nguyễn Khoa Hào...đem 2.000 lính Kinh, 30
con voi, tiến đến đóng đồn ở phủ Trấn Ninh (Nghệ An) [6] rồi tìm cách đưa vua A
Nô về nước [7].
Ít lâu sau, nhà vua ban chỉ
triệu ông về, thăng làm Đô thống, cho lĩnh chức Phó Tổng trấn Bắc Thành. Thấy
mình đến tuổi 70, nhiều lần ông dâng sớ xin về hưu, nhưng nhà vua cứ ủy lạo lưu
lại.
Theo sách Quốc sử di biên của
danh thần Phan Thúc Trực, thì lúc làm Phó Tổng trấn, Phan Văn Thúy đã dâng sớ
xin đổi cách mặc quần áo ở Bắc Thành, và được vua nghe theo. Sách Quốc triều sử
toát yếu chép: "Tháng 10 (âm lịch) năm Mậu Tý (1828), truyền đổi cách ăn mặc
từ sông Gianh trở ra Bắc" [8].
Năm Minh Mạng thứ 14 (Quý Tỵ,
1833), cho ông làm Thự Hậu quân Đô thống Chưởng phủ sự, tước Chương Nghĩa hầu.
Gặp lúc Lê Văn Khôi khởi binh chống Nguyễn ở thành Phiên An, nhà vua cho ông
làm Thảo nghịch Hữu tướng quân. Đến nơi, ông và Tham tán Trương Minh Giảng tiến
quân phá tan một đội quân nổi dậy ở trạm Biên Long. Tháng 8 (âm lịch) năm đó,
ông bị bệnh tại quân thứ Biên Hòa, chuyển về đến Khánh Hòa thì mất.
Thương tiếc, vua Minh Mạng
cho truy tặng ông là Đặc tiến Tráng Vũ tướng quân Thiếu bảo, ban tên thụy là
Trung Tráng. Sau đó, nhà vua còn cho thiết đàn tế ở bên sông Hương, đồng thời
sai Hoàng tử Vĩnh Tường công Miên Hoành làm lễ tứ tửu (tức lễ dâng rượu vua
ban).
Năm Bính Thân (1836), tên ông
được khắc trên bia Võ công dựng tại Võ miếu (lập năm 1835), và đứng hàng thứ ba
trong số 20 danh tướng của triều Nguyễn.
Thông tin liên quan
1. Danh tướng Phan Văn Thúy
là người có công lớn trong việc đào sông (kênh) Vĩnh Định ở Quảng Trị. Theo
sách Đại Nam nhất thống chí (quyển "Phủ Thừa Thiên", mục "Núi
sông"), thì:
Sông đào Vĩnh Định (Vĩnh Định
Hà) ở phía đông lỵ sở cũ của huyện Hải Lăng, chia nước từ ngã ba làng Cổ Thành
của sông cái Thạch Hãn, chảy qua thôn La Duy, lại chảy qua làng Trung Đan (hay
Đơn) rồi vào làng Lương Điền. Thời trước, làng Trung Đan có một đường kênh, sau
bị phù sa, cát bồi lấp thành cạn, thuyền bè khó đi.
Năm thứ 33 (Tân Dậu, 1681)
đời Thái Tông (chúa Nguyễn Phúc Tần), đã cho vét đào, lâu ngày lại tắc. Đến năm
thứ 2 (Quý Dậu, 1693) đời Hiển Tông (chúa Nguyễn Phúc Chu) lại đào, sau lại bị
cát bồi hầu thành đất bằng. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), vua sai Thống chế Phan
Văn Thúy đốc binh dân khai đào từ xã Câu Kênh đến xã Trung Đan gồm 1.720
trượng, ba tháng thì xong, bèn cho tên là Vĩnh Định.
Năm Minh Mạng thứ 17 (Bính
Thân, 1836), xa giá nhà vua tuần du ra Quảng Trị, thuyền ngự đi qua sông này,
có thơ ngự chế khắc vào đá và dựng nhà bia ở bờ nam sông. Cũng vào năm ấy đúc
Cửu Đỉnh, khắc hình sông vào Thuần Đỉnh.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (Nhâm
Dần, 1842), xa giá Bắc tuần, nhà vua có thơ ngự chế khắc vào bia đá dựng ở bờ
sông.
2. Theo Quốc sử di biên của
Phan Thúc Trực, vào năm 1828 (Minh Mạng thứ 9), vấn đề đổi trang phục của miền
Bắc được đặt ra, lần này không phải từ phía chính quyền trung ương mà là từ
chính quyền địa phương. Sách này chép: "Tháng 9, Phó Tổng trấn Bắc Thành
là Phan Văn Thúy xin đổi cách mặc quần áo ở Bắc Thành, vua nghe theo. Vua dụ
rằng: "Đất nước ta cùng chung bốn biển, phong tục hay, lẽ nào lại để cho
có những chỗ sai khác. Tháng trước, các trấn thần ở Thanh Hóa, Nghệ An lần lượt
xin đổi quần áo của sĩ dân, nay thể theo khẩn cầu, toàn hạt Bắc Thành cũng được
sửa đổi kịp thời, để thống nhất chế độ"...
Căn cứ vào điều lệnh do Tổng
trấn Bắc Thành Phan Văn Thúy công bố vào tháng 5 năm 1830 (năm Minh Mạng thứ
11), thì kể từ đó “Đàn ông không được đội mũ dài, mũ Thiên bình, mũ Yến vĩ, áo
có ống tay rộng, cổ cao, đai lưng, đi tất chân. Phụ nữ không được dùng vải lụa
ngắn quấn trên đầu, các dây đai eo lớn nhỏ và quần không đáy”.
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Đầu thời Lê, tên là huyện
Vũ Xương. Đầu triều Gia Long đổi tên là Đăng Xương, đến năm Kiến Phúc thứ nhất
(1884), lại đổi là Thuận Xương (theo Đại Nam dư địa chí ước biên, tr. 178).
[2] Chép theo Đại Nam chính
biên liệt truyện (tr.347), Đại Nam nhất thống chí (sách ở mục tham khảo) và
thông tin trong bài viết “Hình ảnh Quảng Trị trên Cửu Đỉnh” trên báo Quảng Trị
online, cập nhật này 24 tháng 1 năm 2012. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam
(tr. 804) chép ông là người huyện Chương Nghĩa (Quảng Ngãi), là sai.
[3] Trích trong Đại Nam chính biên
liệt truyện (tr. 347). Chưa tra được Đô thống chế Thái hòa hầu là ai.
[4] Theo Đại Nam nhất thống
chí, nguồn đã dẫn. Sử Nguyễn không cho biết ông đã phạm tội gì.
[5] Quốc triều sử toát yếu
(tr. 166-197). Công dịch có nghĩa là việc làm của mỗi người góp vào việc công
ích. Câu này có thể hiểu là nhà vua cho thu tiền công dịch của những người
trong độ tuổi lao động nhưng không đi đào, để nuôi số người trực tiếp đào kênh.
[6] Sách Đại Nam dư địa chí
ước biên (tr. 241) cho biết: "Phủ Trấn Ninh ở phía tây tỉnh thành Nghệ An.
Đầu thời Lê, do Cầm Công (hay Lư Cầm Công, thủ lĩnh của Bồn Man) chiếm giữ. Vua
Lê Thánh Tông đi đánh, dẹp được, đặt tên phủ như ngày nay...Năm đầu Gia Long,
vì Vạn Tượng có công lao đánh giặc (chỉ nhà Tây Sơn), nên đem đất ấy cho họ.
Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), Vạn Tượng bị Xiêm cướp phá, Trấn Ninh lại thuộc về
ta" (chỉ Việt Nam).
Xem thêm mục từ Bồn Man.
[7] Theo Đại Nam chính biên
liệt truyện (tr.347) và Quốc triều sử toát yếu (tr. 174). Tuy nhiên, theo Quốc
triều sử toát yếu, thì các tướng đi theo ông Thúy không có Tham tán Nguyễn Khoa
Hào, mà chỉ có: Nguyễn Văn Xuân (Phó tướng sung chức Bang tá đại thần), Thượng
thư Trần Lợi Trinh (sung chức Tham tán), Đoàn Văn Trường và Lê Văn Quyền (cả
hai đều sung chức Bang tá). Sách Việt Nam
sử lược (tr. 457) kể tên các tướng giống như sách Đại Nam chính biên liệt truyện, nhưng
số quân lại ghi khác: 3.000 và 24 con voi.
[8] Quốc triều sử toát yếu, tr. 182.
Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao
Xuân Dục chủ biên), Đại Nam
chính biên liệt truyện, truyện "Phan Văn Thúy". Nxb Văn Học, 2004.
-Quốc sử quán triều Nguyễn
(Cao Xuân Dục chủ biên), Đại Nam
dư địa chí ước biên. Nxb Văn Học, 2004.
-Quốc sử quán triều Nguyễn
(Cao Xuân Dục chủ biên), Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên). Nxb Văn Học,
2002.
-Quốc sử quán triều Nguyễn,
Đại Nam nhất thống chí
(quyển "Phủ Thừa Thiên", mục "Núi sông", và mục: "nhân
vật": tiểu truyện Phan Văn Thúy) in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3).
Nxb Thanh Niên, 2012.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nxb
Tân Việt, 1968.
-Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá
Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1992.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét