Phan Huy Chú (Chữ Hán: 潘輝注; 1782 – 1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong; là quan
triều nhà Nguyễn, và là nhà thơ, nhà thư tịch lớn [1], nhà bác học Việt Nam.
Xuất thân trong "dòng họ
Phan Huy" có tiếng về văn học, thuở nhỏ, Phan Huy Chú có tên là Hạo, sau
vì kiêng quốc húy đổi là Chú. Ông là con trai thứ ba của danh thần Phan Huy Ích
và bà Ngô Thị Thực (thuộc "dòng họ Ngô Thì", cũng có tiếng về văn
học. Bà là con gái Ngô Thì Sĩ, em gái của Ngô Thì Nhậm, bà mất khi Phan Huy Chú
mới 10 tuổi).
Ông sinh ra và lớn lên ở thôn
Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau
thuộc Hà Tây; và nay là thôn Thuỵ Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố
Hà Nội).
Quê gốc của ông là thôn Chi
Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn
Nghệ An; nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, một
người trong dòng họ Phan Huy (và là ông nội của Phan Huy Chú) là Phan Huy Cận
(sau đổi tên là Áng), làm quan lớn dưới triều Lê-Trịnh, sau khi từ giã chốn
quan trường đã đến ở làng Thụy Khuê, và trở thành "ông tổ đầu tiên của của
chi phái Phan Huy" ở đây.
Vốn thông minh, được cha mẹ
nuôi dạy chu đáo, lại từng được Ngô Thì Nhậm (cậu ruột) rèn dạy từ lúc 6 tuổi;
nhưng cả hai lần thi Hương (Đinh Mão, 1807; và Kỷ Mão, 1819), ông chỉ đỗ Tú tài
(nên tục gọi ông là "Kép Thầy", vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Kể từ
đó, ông thôi việc thi cữ, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác.
Tuy không đỗ cao, nhưng ông
vẫn nổi tiếng là người có kiến thức uyên bác. Vì vậy, năm Tân Tỵ (1821), vua
Minh Mạng cho triệu ông vào kinh đô, cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở
Huế. Năm này, ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông
biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành), và
được khen thưởng.
Năm Ất Dậu (1825), ông được
sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi
thăng Hiệp Trấn Quảng Nam
(1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức
Thị độc ở Viện hàn lâm.
Năm Tân Mão (1831), lại sung
Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả
đoàn sứ bộ đều bị giáng chức (ông bị cách chức), vì tội “lộng quyền” (tài liệu không
kể rõ).
Năm sau (Nhâm Thìn, 1832),
cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia
(Giang Lưu Ba, Indonesia)
để lập công chuộc tội.
Trở về (Giáp Ngọ, 1834), ông
được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin
về hưu ở làng Thanh Mai, thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vũ Thắng, huyện Ba
Vì, thành phố Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi
mất.
Phan Huy Chú mất ngày 27
tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi.
Phần mộ của ông hiện ở tại
thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà
Nội).
Các tác phẩm chính của ông,
có:
-Lịch triều hiến chương loại
chí
-Hoàng Việt dư địa chí
-Mai Phong du Tây thành dã
lục
-Hoa thiều ngâm lục (tập thơ
đi sứ sang Trung Quốc)
-Hoa trình tục ngâm
-Hải trình chí lược, hay còn
gọi là Dương trình ký kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia)
-Lịch đại điển yếu thông
luận, v.v...
Nhìn chung, Phan Huy Chú nổi
tiếng là nhà nghiên cứu, biên khảo, hơn là nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm có giá
trị nhất của ông là bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Đây có thể xem là “bộ
bách khoa toàn thư” đầu tiên của Việt Nam. Kế tiếp, đáng kể nữa là bộ
Hoàng Việt dư địa chí, ghi chép về địa lý Việt Nam.
Thông tin thêm
Vợ Phan Huy Chú là bà Nguyễn
Thị Vũ, con gái Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch (tức Nguyễn Gia Phan), người thôn Yên
Lũng, Từ Liêm (nay thuộc Hoài Đức, Hà Nội). Ông giỏi nghề thuốc, và từng làm
quan trải đến chức Thượng thư bộ Hộ dưới triều Tây Sơn. Năm 1803, ông bị vua
Gia Long sai đánh đòn tại Văn Miếu cùng với Ngô Thì Nhậm.
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Sách tham khảo:
-Phần "Tiểu sử Phan Huy
Chú" in đầu tập 1 của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch
gồm 3 tập). Nxb Khoa học xã hội, 1992.
-Phan Đăng, Lời nói đầu giới
thiệu bộ sách “Hoàng Việt dư địa chí”, in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam
(tập 1). Nxb Thanh Niên, 2012.
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho
sách Hán Nôm (toàn tập). Nxb Khoa học xã hội, 2003.
-Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá
Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1992.
-Nguyễn Lộc, mục từ
"Phan Huy Chú, trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
-Nhiều tác giả, Phan Huy Chú
và dòng họ Phan Huy. Sở Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình xuất bản, 1983. Trong đó,
chủ yếu tham khảo 4 bài viết, là:
*Phan Huy Lê, “Về dòng họ
Phan Huy ở Sài Sơn”.
*Tạ Ngọc Liễn, "Sự
nghiệp còn mãi".
*Kim Anh, "Vai trò gia
đình với sự hình thành tài năng Phan Huy Chú".
*Nguyễn Tuấn Thịnh,
"Phan Huy Chú-Nhà thư tịch lớn".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét