[B]Lê Tắc, Lê Trắc (? - ?, chữ Hán: 黎崱), hay Lê Trực [1], trước là họ Nguyễn sau đổi thành họ Lê, tự là Cảnh Cao (景高), hiệu là Đông Sơn (東山); là một sử gia người Việt, đã sang Trung Quốc sống vào thời nhà Nguyên, và soạn bộ An Nam chí lược ở nơi đó.[/B]
I. Ông là người huyện Đông Sơn, Ái Châu; nay thuộc Thanh Hóa, Việt Nam. Sách vở cũ của người Việt biên chép về ông rất ít. Tuy nhiên nhờ có bài "Tự sự" nằm trong bộ An Nam chí lược do chính Lê Tắc biên soạn, mà biết được một số thông tin về ông.
Theo nội dung bài ấy, thì ông thuộc dòng dõi Nguyễn Phu, làm Thứ sử Giao Châu thời Đông Tấn (đầu thế kỷ 4). Tổ tiên của ông đã nhiều đời ở Ái Châu, trong đó có Tằng tổ tên là Nguyễn Khôn, khoảng cuối đời nhà Lý làm chức Đông Thượng các môn sứ; ông nội tên là Nguyễn Trưng, đầu đời nhà Trần làm chức Ngoại lang. Thân phụ của ông tên là Nguyễn Viễn Vọng, làm Lệnh thư xá, cưới con gái của Hứa Thúc Tôn ở Chư Vệ, rồi sinh ra ông.
Không năm nào và vì sao, ông về làm con nuôi của người cậu tên là Lê Bổng [2], người Chư Vệ, rồi đổi thành họ Lê.
Đến năm 9 tuổi, Lê Tắc thi khoa thần đồng. Lớn lên, ông cưới con gái của Xương Xán ở Chư Vệ, và được vua Trần Thái Tông cho vào cung hầu cận, dần trải đến chức Thị lang. Sau, đổi ông qua giúp việc dưới trướng của Chương Hiến hầu Trần Kiện (con thứ của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, và là cháu nội vua Trần Thái Tông), rồi theo vị quan này vào trấn giữ Nghệ An.
Đầu năm Ất Dậu (1285), Quân Nguyên từ Trung Quốc chia làm ba đạo tiến đánh Đại Việt (Việt Nam ngày nay) lần thứ hai. Lúc bấy giờ, đạo quân thứ 3 do tướng Toa Đô chỉ huy đang ở Chiêm Thành tiến đánh lên. Lập tức, Hưng Đạo Vương bàn với Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra quân chặn đánh ở Nghệ An. Tháng 2 (âm lịch) năm ấy, Trần Kiện và liêu thuộc (trong số đó có Lê Trắc) đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên [3].
Trên đường lưu vong sang Yên Kinh (kinh đô nhà Nguyên, nay là Bắc Kinh), Trần Kiện bị quân phục kích nhà Trần bắn chết ở Lạng Giang (ở phía bắc tỉnh Bắc Giang ngày nay). Lê Trắc liều mình cướp được xác chủ mang sang Khâu Ôn (thuộc Lạng Sơn) chôn cất.
Lê Tắc kể:
..."Tháng 4 (Ất Dậu)...Minh Lý Tích Ban đem bọn Chương Hiến (Trần Kiện) vào bệ kiến Thiên tử (nhà Nguyên). Đi đến trại Chi Lăng, bị quân Nam chặn đánh rất gấp. Đang đêm, ...Chương Hiến bị địch quân dồn ép giết chết trên lưng ngựa. Tắc ôm thây ruổi chạy mấy mươi dặm, ra Khâu Ôn an táng. Những thuộc lại đi theo Chương Hiến, bị giết gần một nữa"...[4]
Sách Đại Việt sử ký toàn thư kể:
..."Tháng 2, ngày Giáp Thìn mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang là Chương Hiến hầu (Trần) Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên. Toa Đô sai đưa bọn Kiện về Yên kinh. Thổ hào Lạng Giang là bọn Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh tập kích ở trại Ma Lục (Chi Lăng). Gia nô của Trần Hưng Đạo là Nguyễn Địa Lô bắn chết Kiện. Trắc đưa xác Kiện lên ngựa, trốn đi đêm, chạy được vài chục dặm, tới Khâu Ôn chôn Kiện ở đó"...[5].
Mùa xuân năm Bính Tuất (1286), vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt phong cho Trần Ích Tắc (con vua Trần Thái Tông, đầu hàng và chạy sang Yên Kinh trong cuộc chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần thứ hai) làm "An Nam quốc vương". Các quan đi theo đều được phong chức tước theo thứ bậc, Lê Tắc được phong sắc Tòng thị lang, lãnh chức Chỉ huyện Lệnh doãn.
Năm Đinh Hợi (1287), quân Nguyên mượn tiếng đưa "An Nam quốc vương" Trần Ích Tắc về nước để tiến công Đại Việt lần thứ ba. Kết cuộc, lần này đại quân nhà Nguyên lại thua to hơn hai lần trước, khiến Lê Tắc đi theo lại phải chạy tháo thân sang Trung Quốc.
Lê Tắc kể:
..."Năm Đinh Hợi...Hoàng thượng (Hốt Tất Liệt) khiến Trấn Nam vương (Thoát Hoan) cùng Bình Chương Áo Lỗ Xích Khê (Ayuruychi) đem binh tiến thảo. Mồng ba tháng 9, quân khởi hành từ tỉnh Ngạc, tháng 11 đến An Nam (Việt Nam ngày nay)...Kế sau quân (nhà Nguyên) bị tan vỡ...mấy nghìn người chạy lạc đường đều bị vây hãm. Một mình Tắc dẫn Đạt Vạn hộ, Tiêu Thiên hộ (tên gì đều chưa rõ) và Thiêm Sự viện lĩnh phủ phán Lê Yến. Yến, trên ngựa bồng cậu bé 9 tuổi (Trần Dục), con của An Nam quốc vương (Trần Ích Tắc), cộng tất cả hơn sáu mươi kỵ mã quân, giết lính giữ ải, chạy về phương Bắc. Ngựa Lê Yến sức yếu, chạy thụt đường sau, gần bị quân Nam (chỉ quân nhà Trần) đuổi kịp. Tắc thương hại, đổi ngựa khỏe của mình cho Yến, mình đi sau quất ngựa Yến chạy tới để thoát nạn. Khốn nỗi, đường trước cũng bị quân Nam đón đánh, hai mặt giáp công, khiến vất vả muôn lần suýt chết, rong ruổi suốt mấy trăm dặm, từa nửa đêm đến mờ sáng, đến ải Châu Chiếu lạy mừng"....[6]
Năm Nhâm Thìn (1292), Lê Tắc được cấp hàm Phụng Sự lang, lĩnh hư chức đồng Tri châu An Tiêm. Về sau, ông cưới Tôn nữ họ Lý (con quốc vương trước, và là con nuôi Chương Hoài hầu, tức Trần Văn Lộng) làm vợ [7].
Vì bài "Tự sự" bị thiếu, nên không rõ quảng đời còn lại của ông. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì về sau Lê Tắc được bổ làm Phụng nghị đại phu ở đất Hán Dương (nay là các quận Hán Dương và Thái Điện, địa cấp thị Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc). Ở đây, ông sống gần như một ẩn sĩ. Không rõ ông mất năm nào.
Khi sống lưu vong ở Trung Quốc, ông kết giao với một số sĩ đại phu, hay ngao du sơn thủy và say mê nghiên cứu điển tịch. Khoảng năm 1307, Lê Tắc đã cơ bản (về sau ông còn bổ sung thêm) làm xong bộ sách An Nam chí lược (gồm 20 quyển, về sau thất lạc quyển 20), trong đó có 15 bài thơ của ông.
[B]Chú thích phần I:[/B]
[1] GS. Nguyễn Huệ Chi cho biết: "Lâu nay vẫn quen đọc là Lê Tắc (hay Trắc), nhưng Lê Mạnh Thát mới phát hiện ra cách đọc là "Lê Thực" qua lời chú của chính Đại Việt sử ký toàn thư (sách ở mục tham khảo, tr. 34).
[2] Ghi theo "Tự sự", bản dịch tiếng Việt in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1, tr. 530). Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1, tr. 44) ghi là "Lê Phụng".
[3] Theo Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2, bản dịch, tr. 51). Trong "Tự sự", thì Trần Kiện đem Lê Tắc và mấy vạn người đi chống cự với quân Toa Đô ở Thanh Hóa. Đánh trận ấy bị thua, liệu bề chống không nổi nữa, "bèn cùng bọn Tắc đem quân ra hàng" (nguồn đã dẫn, tr.531).
[4] Trích "Tự sự", nguồn đã dẫn (tr. 531). Các chữ trong ngoặc là của người soạn.
[5] Trích trong Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), bản dịch, tr. 51.
[6] Trích "Tự sự", nguồn đã dẫn (tr. 531-352). Các chữ trong ngoặc là của người soạn.
[7] "Tự sự" không ghi rõ “quốc vương trước” là ai.
[8] Theo Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học (bộ mới), tr.34.
[B]II. An Nam chí lược[/B] (chữ Hán: 安南志略, có nghĩa: "Lược ghi về An Nam"[1]), là một bộ sách sử viết bằng văn xuôi chữ Hán (nguyên bản có 20 quyển, nhưng hiện tại chỉ còn 19 quyển) do Lê Tắc (? - ?) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc ở khoảng nửa đầu thế kỷ 14. Nội dung sách ghi chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa, v.v...An Nam (Việt Nam ngày nay) từ ban đầu đến cuối đời Trần. Có lẽ đây là một công trình khảo cứu về Việt Nam lâu đời nhất còn lại, do một người Việt viết.
[B]Năm biên soạn[/B]
Không biết chính xác năm khởi soạn. Tuy nhiên, căn cứ vào ba bài Tựa viết cho An Nam chí lược vào năm Đinh Mùi (1307), có lẽ bộ sách được biên soạn trước đó, đến năm ấy, thì tác phẩm đã cơ bản hoàn thành, và còn được tiếp tục bổ sung thêm trong nhiều năm sau.
-Trích bài Tựa của Lưu Tất Đại:..."Trong năm Đại Đức thứ 11 (1307)...quan An Tiêm châu đồng tri là Lê phụng sự (chỉ Lê Tắc) đến thăm tôi tại công thự Ngọc đường, đưa ra bộ An Nam chí lược cho tôi xem....Đến lúc Lê phụng sự từ giã bệ rồng trở về, tôi có nói với ông rằng: Bộ sách này nên chép thêm, tôi sẽ nói với Sử quán, tâu lên Triều đình, phụng chiếu giao cho Bí phủ để bổ túc bộ Nhất Thống chí"...
-Trích bài Tựa của Hứa Thiện Thắng:..."Lê Tắc, người Đông sơn, bèn lấy sơn xuyên, phong thổ, nhân vật cổ kim, những sự biến cách và những cuộc hành động quân đội gần đây, biên thành một quyển sách"...
-Trích bài Tựa của Trình Cự Phu: "Gần đây tôi sắp đi đi ra đất Giang, Hán, có nghe nói dưới trướng Trần Vương (Trần Ích Tắc) có nhã sĩ hay văn. Nay coi bộ sách này quả không phải là lời nói ngoa...[2]
Không rõ sau đó, Lê Tắc đã soạn thêm những phần nào, chỉ biết mãi đến hơn 25 năm sau (1333 hoặc 1335), mới có bài Tự tựa của chính tác giả. (xem bên dưới). Và căn cứ vào câu "Nguyên Thống sơ nguyên..." ở cuối bài, mà một số nhà nghiên cứu, trong đó có H. Maspéro đã cho rằng bộ sách đã làm xong vào năm 1333 (năm này, Hoàng đế Nguyên Huệ Tông cho đổi niên hiệu là Nguyên Thống) [3].
Không đồng ý với ý kiến trên, sau khi khảo chứng, GS. Trần Kính Hòa (Chen Ching Ho, nhà nghiên cứu người Hồng Kông) đã cho rằng chữ “nguyên” trong "sơ nguyên" là chép hay khắc nhầm (vì kiểu chữ hơi giống nhau), lẽ ra phải là chữ “tam”, tức năm 1335. Ngoài ra, căn cứ vào một vài sự kiện xảy ra sau đó được ghi trong bộ sách, GS. Hòa còn kết luận rằng “An Nam chí lược không phải đã soạn xong vào dịp Lê Tắc viết bài Tự tựa, kỳ thực Lê Tắc vẫn tiếp tục gia bút cho đến năm Chí Nguyên Kỷ Mão (1339)”. Nhưng vì sao có bài Tự tựa đề năm 1335, GS. Hòa giải thích: “Hình như lúc ấy bộ này đã có cơ hội được đem ra ấn hành, song việc đó đến năm Chí Nguyên thứ 5 (1339) vẫn chưa được thực hiện”...[4].
Vì tác giả không đề năm khởi soạn, và vì năm hoàn thành bộ sách cũng chưa thật rõ ràng, nên có một số tác giả đã ghi là "An Nam chí lược được biên soạn vào đời Nguyên" (như trong bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu [quyển 14] biên soạn vào đời Càn Long, nhà Thanh, Trung Quốc), hoặc là "vào thế kỷ 14" (như H. Cordier trong cuốn Theo book of Ser Marco Polo xuất bản ở Luân Đôn năm 1924).
[B]Các truyền bản[/B]
Theo bài "Tựa" (giới thiệu ở bên dưới) của Học sĩ Âu Dương Huyền, thì trong năm Thiên Lịch (1328-1329) đời Nguyên Văn Tông, ông cùng với một số văn nhân khác được nhà vua cho làm chức Toản tu để soạn bộ Kinh Thế đại điển. Đến khi làm xong định dâng lên vua, thì có Đại học sĩ Hà Vinh dâng cuốn An Nam chí lược (gồm 20 quyển) của Lê Tắc, khiến vua ban chiếu giao cho thư cuộc, làm thành một quyển An Nam phụ lục để thêm vào bộ Kinh Thế đại điển, xếp ở mục “địa quan” (tức sử địa)...Tiếc rằng bộ sách này sau đó đã thất truyền.
Qua đầu đời nhà Minh, An Nam chí lược lại được chép trong bộ Vĩnh Lạc đại điển (soạn 1403, xong 1408), nhưng phần chép ấy sau đó lại bị thất truyền, nên không rõ A Nam chí lược trong Vĩnh Lạc đại điển (và cả trong Kinh Thế đại điển) chép ra sao. Chỉ biết đến khi Thanh Cao Tông (Càn Long) giáng chỉ soạn bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, và An Nam chí lược được đưa vào, thì nó chỉ còn 19 quyển.
Tóm lại, An Nam chí lược từng có mặt trong cả ba bộ sách lớn (được coi là “bách khoa toàn thư Trung Quốc”), và đã được nhiều danh sĩ khen ngợi trong các bài Tựa. Tiếc rằng Bản nguyên gồm 20 quyển đã thất truyền từ lâu, hiện giờ chỉ còn bản 19 quyển đang được lưu hành. Tuy vẫn có bản 20 quyển như: bản Văn lan các ở Tokyo (Nhật Bản), Bản sao của British Museum (Luân Đôn, Anh), ...nhưng kỳ thực các bản ấy chỉ lấy bản 19 quyển phân chia thành 20 quyển mà thôi...
Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì sau năm 1339, An Nam chí lược (20 quyển) mới được san khắc lần đầu, nhưng bản ấy về sau đã thất lạc [5]. Tuy nhiên, căn cứ nội dung bài Tựa (không đề năm) của Âu Dương Huyền (xem bên dưới), thì rất có thể sách được san khắc lần đầu trong khoảng niên hiệu Chí Nguyên (1335-1340, đời Nguyên Huệ Tông).
Bản An Nam chí lược thông dụng bấy lâu nay là san bản của nhà Lạc Thiện đường do Kishida Ginko (phiên âm tiếng Việt là Ngạn Ngâm Hương, người Nhật Bản) ấn hành năm Minh Trị thứ 17 (tức năm Quang Tự thứ 10 của triều Thanh, 1884) tại Thượng Hải (Trung Quốc). Trong bài Tựa, ông cho biết đây bản của Thiếu Thiềm Tiền Trúc Đinh tự tay hiệu chính, và trước kia nó thuộc tàng thư cũ của Ngũ Nghiện lầu. Bộ sách này chỉ có 19 quyển, và đã được Phan Duy Tiếp dịch rồi in rônêô tại miền Bắc Việt Nam vào năm 1959.
Ngày 31 tháng 3 năm 1960, sau khi đã tổ chức phiên dịch, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam trực thuộc Viện Đại học Huế đã giới thiệu một bộ An Nam chí lược mới. Theo "Phàm lệ", thì Ủy ban đã lấy bản của Lạc Thiện đường, bản sao của Tiền Đại Hân tự tay hiệu đính (hiện tàng trữ tại Nội các Văn khố Nhật Bản), bản sao của Văn lan các (hiện tàng trữ tại Đông Kinh Tỉnh Gia đường văn khố) và bản sao ở Đại Anh Bác vật quán (Luân Đôn, Anh) để làm ra, và đặt tên là An Nam chí lược hiệu bản.
Năm 2012, An Nam chí lược hiệu bản lại được giới thiệu đầy đủ trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1) do nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành.
[B]Tự tựa và Tựa của Âu Dương Huyền[/B]
Dưới đây là "Tự tựa" của Lê Tắc (dịch từ chữ Hán ra tiếng Việt) cho biết lý do làm ra An Nam chí lược, và các sách mà ông đã dùng để tham khảo trong quá trình biên soạn.
"Tôi sinh trưởng ở đất Nam Việt, đã làm quan ăn lộc của bản quốc. Trong mười năm về trước, đi xứ nọ qua xứ kia, trải khắp nửa nước An Nam, hơi biết được hình thế sơn xuyên địa lý. Từ khi nội phụ Thánh triều (nhà Nguyên) đến nay đã hơn năm mươi năm rồi. Tự xét đã quê mùa lại ngây dại, học thức theo lối xưa mà không thấu đáo, đến tuổi già lại ham sách, tiếc rằng đã muộn, nên các văn tịch cổ kim không thể xem hết được.
"Nhân trong lúc rảnh thì giờ, gom góp lượm lặt những điều đã ghi trong quốc sử các triều đại, Giao Chỉ đồ kinh,lại tham khảo bộ Phương kim bổ nhất điển cố, mà làm ra bộ An Nam chí lược, 20 quyển.
"Người xưa có nói: “đạo trời chỉ có một mà thôi vậy”. Nay ta ở trong khoảng trời đất che đất chở, đều phải có trật tự, lễ nghĩa, vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con, nếu không có cái tính tốt ấy, thì làm sao cho hợp với lẽ trời?
"Huống chi Thanh giáo đã lan tràn tới Nam Giao từ đời Đường, Ngu đến nay hơn 3.000 năm, cho nên sự ưa chuộng về thanh danh, văn vật gần như Trung Quốc, tuy rằng phong thổ có khác, nhưng sự tích nhiều chỗ đáng hi chép, không nên bỏ qua. Tiếc rằng các nhà kỷ thuật nói thì rộng mà phần nhiều trái ngược nhau.
"Cuốn này căn cứ vào kiến văn và lấy tài liệu của các sách, nhưng không khỏi có chỗ sai lầm, xin các vị chư quân tử, thấy chỗ nào sơ lược thì cải chính cho.
"Ất Mão, Nguyên Thống sơ nguyên, tiết thanh minh, mùa xuân, Cổ Ái, Lê Tắc tựa"[6].
Ngoài bài "Tự tựa" của tác giả, trong các bản lưu truyền, còn có các bài Tựa của các danh sĩ Trung Quốc (phần lớn là của các danh sĩ đời Nguyên), Kishida Ginko (người Nhật Bản, đề Tựa năm 1884),... Bên dưới đây, chỉ giới thiệu bài "Tựa" của Học sĩ Âu Dương Huyền, vì nó có liên quan đến khoảng thời gian ra đời của An Nam chí lược.
"Trong năm Thiên Lịch (1328-1329, đời Nguyên Văn Tông), tôi làm quan Tượng Khuê Chương học sĩ, đồng thời cùng chung làm chức Toản tu để soạn bộ Kinh Thế đại điển; làm xong định dâng lên vua, vừa khi Đại học sĩ Hà Vinh lấy bộ sách An Nam chí lược của ông Lê Tắc dâng lên, được lời chiếu vua, khiến giao cho thư cuộc, bèn làm một quyển An Nam phụ lục, để cho thuộc môn địa quan.
"Trong niên hiệu Chí Nguyên (1335-1340, đời Nguyên Huệ Tông), tôi được triệu lên Đại Đô (Bắc Kinh), qua đất Giang Hán, ông Lê Tắc lấy bộ Chí lược ấy trình với tôi mà xin bài Tựa. Thiết tưởng nhà Thánh Nguyên chí nhân như trời, bao hết thiên hạ, không kể xa gần, khiến vua tôi Nam Giao được cấp bổng lộc sống ở Trung Quốc tính đã mấy mươi năm, không có mảy may Ông Lê Tắc được nhà hạ, rong chơi, tự ý sáng tác văn chương, đã vẽ vời được địa hình của bản quốc (Việt Nam), lại thêm chi tiết về thổ nghi, phong tục, sản vật và nhân vật. Hơn nữa còn thu lượm được các mục văn tự của sứ thần Nam, Bắc qua lại. Nếu không phải nhờ đức hóa thấm nhuần, thanh giáo phổ biến, sao có thành tích như vậy? Xưa đức Khổng Tử dọn bớt Kinh Thi, để lại chương Thức Vi [7] trong thiên Vệ Phong, tuy việc này chứng tỏ ý buồn của người ký ngụ, nhưng đương thời bây giờ, không ai giúp đỡ được người ấy, do việc này cũng đủ biết rõ.
"Lấy đó mà suy luận, thì các nhà văn học hiện nay cũng nên nêu ra An Nam chí lược, tán tưởng để cho đời sau hiểu rõ giá trị của bộ này. Nước nhà có đức dìu dắt người phương xa và bao bọc cả bốn phương, truyền lại muôn đời, phải chăng sẽ nhờ bộ sách này?
"Lê quân (Lê Tắc) biệt hiệu Đông Sơn, tính ưa đọc sách, hiếu cổ, càng già càng phát huy. Còn những bài thơ khác (của ông), có thể truyền đời sau cũng rất phong phú.
"Hàn Lâm Thị giảng Học sĩ, Âu Dương Huyền tựa".
[B]Mục lục và nội dung (sơ lược)[/B]
Dưới đây là mục lục sách An Nam chí lược được giới thiệu trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1), kèm theo là nội dung tóm tắt (phần để trong ngoặc) của GS. Nguyễn Huệ Chi và của An Nam chí lược hiệu bản. Ở các bản khác, phần mục lục có dị biệt một vài chỗ.
Quyển nhất, gồm 10 mục:
-Địa lý đồ (bản đồ địa lý Việt Nam, phần này đã mất)
-Tổng tự (lịch sử tổng quát của Việt Nam từ thượng cổ đến đời Trần)
-Quận ấp
-Sơn
-Thủy
-Cổ tích
-Đường An Nam Đô hộ nguyên lệ châu quận (tên các châu quận vốn có trong An Nam đô hộ phủ đời Đường)
-Phong tục (nói sơ về phong tục Việt Nam lúc bấy giờ)
-Biên cảnh phục dịch (nói sơ về nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Liêu Tử)
-Trắc ảnh (đo bóng mặt trời).
Quyển hai, gồm 2 mục:
- Đại Nguyên chiếu chế (gồm các giấy tờ triều Nguyên gửi cho triều đình Việt Nam)
-Tiền triều thư mạng (gồm các bức thư và sắc chỉ của các triều đại Trung Quốc trước triều Nguyên gửi các triều đại Việt Nam)
Quyển ba, gồm 2 mục chính:
-Đại Nguyên phụng sứ (các sứ thần triều Nguyên sang Việt Nam). Phụ chép cuộc sứ trình của Trương Lập Đạo sang Việt Nam, và bài tựa tập Sử Giao lục (Ghi chép chuyện đi sứ Giao Chỉ) của Tiêu Phương Nhai (tức Tiêu Thái Đăng) nói về cuộc đi sứ sang Việt Nam năm 1294.
-Tiền triều phụng sứ (các sứ thần của các triều đại trước triều Nguyên sang Việt Nam)
Quyển bốn, gồm 2 mục:
-Chinh thảo vận hướng (việc tải lương trong cuộc xâm lược Việt Nam của nhà Nguyên)
-Tiền triều chinh phạt (việc chuẩn bị lương thảo của các triều đại trước nhà Nguyên trong những lần hành quân xâm lược Việt Nam)
Quyển năm, gồm 2 mục:
-Đại Nguyên danh thần vãng phục thơ vấn (thư từ của các quan chức triều Nguyên giao thiệp với Việt Nam)
-Tiền triều thư sớ (thư từ của các triều đại trước nhà Nguyên giao thiệp với Việt Nam)
Quyển sáu, gồm 2 mục:
-Biểu chương (thư biểu của các vua nhà Trần gửi nhà Nguyên trong các năm)
-Tiền đại thư biểu (thư biểu của Triệu Đà, Lê Hoàn...gửi các triều vua Trung Quốc, trước triều Nguyên)
Quyển bảy, gồm 1 mục chính:
-Hán Giao Châu, Cửu Chân, Nhật Nam thứ sử, thái thú (các quan Thứ sử, Thái thú ở quận Giao Châu, Cửu Chân, Nhật Nam). Phụ Tam Quốc thời thứ sử (phụ chép các quan Thứ sử, Thái thú đời Tam Quốc)
Quyển tám, gồm 1 mục chính:
- Lục Triều Giao Châu thứ sử, đô đốc; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, thái thú (các Đô đốc, Thứ sử Giao Châu, các Thái thú ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trong thời Lục Triều)
Quyển chín, gồm 2 mục chính:
- Đường An Nam đô đốc, đô hộ, kinh lược sứ, Giao, Ái, Hoan tam quận thứ sử (các quan Đô đốc, Đô hộ, Kinh lược sứ An Nam và các quan Thứ sử ba quận là Giao Chỉ, Ái Châu, Hoan Châu vào đời nhà Đường). Phụ Thiên Oai Kỉnh tân tạc hải phái bia (phụ chép bài văn bia Thiên Oai Kỉnh, đường kênh mới đào)
-Tống Giao Châu chuyển vận sứ, an vũ sứ (nói về Hầu Nhân Bảo, Thiệu Diệp)
Quyển mười, gồm 1 mục:
- Lịch triều ky thần (hay cơ thần, chép về những viên quan Trung Quốc bị đày hoặc bỏ trốn sang Việt Nam ký ngụ)
Quyển mười một, gồm 4 mục chính:
-Triệu thị thế gia (Gia thế, dòng dõi của Triệu Đà). Phụ chép bài Nam Việt hành của quan Gián nghị nhà Tống là Chu Chi Tài.
-Ngũ đại thời tiếm thiết (những người tiếm xưng vương hiệu thời Ngũ Đại: Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền)
-Đinh thị thế gia (Gia thế, dòng dõi của Đinh Bộ Lĩnh)
-Lê thị thế gia (Gia thế, dòng dõi của Lê Hoàn) [8]
Quyển mười hai, gồm 1 mục:
-Lý thị thế gia (Gia thế, dòng dõi nhà Lý)
Quyển mười ba, gồm 1 mục:
-Trần thị thế gia (Gia thế, dòng dõi nhà Trần). Phụ chép Nội phụ hầu vương (các Vương hầu nội phụ: Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng, Trần Kiện)
Quyển mười bốn, gồm 5 mục nói về Việt Nam:
-Học hiệu (tình hình giáo dục)
-Quan chế (quy chế quan lại)
-Chương phục (mũ áo phẩm phục)
-Hình chánh (việc cai trị)
-Binh chế (tổ chức quân đội)
-Lịch đại khiển sứ (sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc trong các triều đại)
Quyển mười lăm, gồm 2 mục chính, 1 mục phụ:
-Nhân vật (nói về những người Việt Nam, gồm nhiều tiểu mục nhỏ: người nhận tước mệnh của các triều đại của Trung Quốc, người sang làm quan ở Trung Quốc, người có tên tuổi, phụ nữ tiết nghĩa, nhà sư có tiếng, người chống lại chính quyền đô hộ: Trưng Trắc, Bà Triệu, Lý Bí, Dương Thanh, Nùng Trí Cao)
-Vật sản (các loại sản vật quý của Việt Nam)
-Phụ: Lâm Ấp (phần này đã mất)
Quyển mười sáu, gồm 2 mục:
-Tạp ký (chuyện vặt vãnh). Phụ chép bài "Liễu Tử Hậu vị An Nam Dương thị ngự tế Trương Đô hộ văn" (bài văn của Liễu Tử Hậu làm cho quan Thị ngự An Nam họ Dương tế quan Đô hộ họ Trương)
-Lịch triều danh hiền tạp vịnh (một số thơ văn của các bậc danh hiền Trung Quốc đề vịnh về Việt Nam)
Quyển mười bảy, gồm 2 mục:
-Chí Nguyên dĩ lai danh hiền phụng sứ An Nam thi (thơ văn của các sứ thần triều Nguyên sang Việt Nam từ niên hiệu Chí Nguyên [đời Nguyên Huệ Tông] trở về sau)
-Ngọc Đường chư công tặng Thiên sứ thi tự (những bài tựa và thơ của các quan Hàn lâm viện đưa tặng các sứ giả triều Nguyên sang Việt Nam)
Quyển mười tám, gồm 1 mục:
- An Nam danh nhân thi (thơ của các vua quan triều Trần, trong đó có tác giả)
Quyển mười chín, gồm 2 mục:
-Đồ chí ca (bài thơ trường thiên của tác giả viết về mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc)
-Tự sự (tự kể chuyện về thân thế của tác giả). Sau đó là ba bài viết ngắn (viết năm 1812, 1814 và một bài không ghi năm) nói về A Nam chí lược của Phục Ông (tức Hoàng Phi Liệt) và bài Lời cẩn bạch của Kishida Ginko (viết năm 1884) [9]
Quyển hai mươi, gồm 1 mục:
-Danh công đề vịnh An Nam chí (nay đã mất)
***
Trong các bài Tựa của các danh dĩ triều Nguyên viết cho bộ An Nam chí lược, đều có lời khen ngợi tác giả và tác phẩm, mà bài Tựa của Âu Dương Huyền vừa giới thiệu bên trên chỉ là một trong số đó... Đến đời Thanh, trong bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu (soạn đời Càn Long) cũng đã có lời khen ngợi như sau:
..."Các sự biên chép như trên (trong An Nam chí lược) càng đủ chứng tỏ các bộ Nguyên sử có nhiều thiếu sót. Còn như biên chép các loại sơn xuyên, nhân vật thì rõ ràng đầy đủ, thật có công tìm tòi, kê cứu...không kém gì bộ sử Cao Ly vậy.
Đối với các nhà nghiên cứu người Việt, có ý kiến cho rằng, tác giả đã đứng trên quan điểm của người Nguyên để soạn An Nam chí lược, bằng lời lẽ xu phụ, nên đã bị một số sĩ phu khinh miệt cho tác giả là "tiểu nhân nho", là "phản bội tổ quốc" [10]. Song, cũng có ý kiến khác cho rằng, tuy làm quan cho nhà Nguyên, nhưng tác giả vẫn có lòng tưởng nhớ cố hương, và cách soạn sách theo quan điểm nhà Nguyên là việc bắt buộc phải uốn theo triều đại mà ông phục vụ.
Mặc dù có những hạn chế về mặt quan điểm, nhưng An Nam chí lược vẫn được coi là một bộ sách lớn, xuất hiện sớm, có giá trị nhiều mặt, do một người có trình độ học vấn cao viết về thời đại mình đang sống (thời nhà Trần) trở về trước. Khái quát về mặt ưu và khuyết của tác phẩm, GS. Nguyễn Huệ Chi, viết:
"Đây là một bộ sách tập hợp sử liệu và văn liệu về Việt Nam, thiên về một phương diện: trình bày mối quan hệ lịch sử nhiều mặt giữa Việt Nam và Trung Quốc. Do được viết trong thời gian quy phụ[18] “Thiên triều”, tác giả phải tô đậm tính chất lệ thuộc trong mối quan hệ ấy. sử bút của tác giả vì thế mất tính khách quan, và ngôn từ trong sử cũng như trong thơ thường lộ rõ giọng người quy phụ. Tuy nhiên, cũng nhờ được tiếp xúc với sách vở Trung Quốc thuở ấy, tác giả đã ghi lại được khá nhiều tư liệu hiếm hoi liên quan đến lịch sử, văn hóa Việt Nam. Phần thư tín ngoại giao giữa hai nước cũng cung cấp được ít nhiều tác phẩm văn học thuộc loại hình văn xuôi luận chiến vốn có truyền thống rất sớm ở nước ta"'...[11]
[B]Chú thích phần II:[/B]
[1] An Nam là tên gọi nước Việt Nam thời xưa, xuất hiện từ năm 679 khi nhà Đường (Trung Quốc) đổi tên "Giao Châu đô phủ" thành "An Nam đô hộ phủ", và tồn tại đến đầu thế kỷ 10 (sau đó đổi tên thành "Giao Chỉ quận"). Từ năm 1777 (đầu đời Lý Cao Tông), các vương triều Trung Quốc thường dùng tên "An Nam quốc" để chỉ nước Việt Nam ngày nay, và phong cho các vua Việt Nam tước hiệu là "An Nam quốc vương" (theo Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, 1995, tr. 44).
[2] Chép theo các bản dịch in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1), phần “An Nam chí lược”.
[3] Bài Le protectorat général d’ Annam sous les T’ang (BEFEO., 1910, t. X, p. 540.
[4] Xem chi tiết trong bài "Soạn niên, tài liệu và truyền bản của An Nam chí lược" của GS. Trần Kính Hòa, sách ở mục tham khảo, tr. 69-84.
[5] Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Lê Tắc" , tr.34-35.
[6] Phiên âm Hán-Việt của câu này là: “Nguyên thống sơ nguyên Ất Mão, xuân thanh minh tiết, Cổ Ái, Lê Tắc tựa” (theo Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập 1, tr.100). Theo sự khảo chứng của Trần Kính Hòa thì nó phải là “Nguyên Thống sơ tam Ất Hợi” tức năm 1335. Theo Trần Văn Giáp (tr. 584), thì phiên âm của câu này là: “Nguyên thống sơ nguyên Ất Mão xuân, thanh minh tiết, Cổ Ái, Lê Tắc tựa” (dấu phẩy nằm sau chữ xuân). Và theo ông, Ất Mão phải hiểu là “tháng Ất Mão” mới đúng Vì năm 1333 (là năm Quý Dậu) và năm 1335 (là năm Ất Hợi) đều không phải là năm Ất Mão. Tính ra, tháng Ất Mão chính là tháng 2 của năm Quý Dậu, phù hợp với chữ “xuân” ở trong câu.
[7] Đây là một bài trong ca dao nước Vệ (Vệ Phong) do một người tôi trung nước Vệ làm ra để hoài cảm đất nước.
[8] Trong mục lục của Trần Văn Giáp (tr. 585), thì quyển 10 gồm có "Lịch triều ky thần", "Triệu thị Thế gia", "Ngũ đại thời tiếm thiết". Quyển 11 chỉ có "Đinh thị thế gia" và "Lê thị thế gia". GS. Nguyễn Huệ Chi cũng chép giống như thế.
[9] Hoàng Phi Liệt (1763-1825), tự Nghiêu Phố, là người Giang Tô, đỗ Cử nhân năm 1788. Ông học giỏi, thích tàng trữ sách cổ. Ông có nhiều tác phẩm nói về các sách cổ. Kishida Ginko (1833-1805), sinh ra ở Okayama (Nhật Bản); là nhà báo, nhà nghiên cứu Trung Quốc và là một doanh nhân.
[10] Theo Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, 1992, tr. 376). Một trong số người có quan điểm này, là Cao Văn Luận (Giáo sư, Viện trưởng Viện Đại học Huế). Ông viết: "Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm của người Nguyên để soạn...Ủy ban (phiên dịch sách An Nam chí lược) không có chút ý định nào dung thứ những hành động và quan niệm sai lầm của soạn giả đối với Tổ quốc" (trích trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1, tr. 65). Tuy nhiên, phê phán gay gắt nhất, có lẽ là Trần Thanh Mại. Theo ông, thì đó là "một quyển sử nhục nhã của kẻ bán nước" (dẫn lại theo Vũ Ngọc Khánh, tr. 85).
[11] Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Lê Tắc" , tr.34-35.
Sách tham khảo:
-Lê Tắc, "Tự sự". Bản dịch tiếng Việt in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1, tr. 99-100). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2). Bản dịch tiếng Việt do Nxb Khoa học xã hội ấn hành năm 1985.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Lê Tắc" in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ "An Nam chí lược" in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
-Trần Kính Hòa, "Soạn niên, tài liệu và truyền bản của An Nam chí lược" in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
- Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam trực thuộc Viện Đại học Huế, An Nam chí lược hiệu bản, in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1).
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (trọn bộ 2 tập). Nxb Khoa học xã hội, 2003.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1992.
- Vũ Ngọc Khánh, Người "có vấn đề" trong sử nước ta, Nxb Văn hóa-thông tin, 2008.
[B]Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.[/B]
I. Ông là người huyện Đông Sơn, Ái Châu; nay thuộc Thanh Hóa, Việt Nam. Sách vở cũ của người Việt biên chép về ông rất ít. Tuy nhiên nhờ có bài "Tự sự" nằm trong bộ An Nam chí lược do chính Lê Tắc biên soạn, mà biết được một số thông tin về ông.
Theo nội dung bài ấy, thì ông thuộc dòng dõi Nguyễn Phu, làm Thứ sử Giao Châu thời Đông Tấn (đầu thế kỷ 4). Tổ tiên của ông đã nhiều đời ở Ái Châu, trong đó có Tằng tổ tên là Nguyễn Khôn, khoảng cuối đời nhà Lý làm chức Đông Thượng các môn sứ; ông nội tên là Nguyễn Trưng, đầu đời nhà Trần làm chức Ngoại lang. Thân phụ của ông tên là Nguyễn Viễn Vọng, làm Lệnh thư xá, cưới con gái của Hứa Thúc Tôn ở Chư Vệ, rồi sinh ra ông.
Không năm nào và vì sao, ông về làm con nuôi của người cậu tên là Lê Bổng [2], người Chư Vệ, rồi đổi thành họ Lê.
Đến năm 9 tuổi, Lê Tắc thi khoa thần đồng. Lớn lên, ông cưới con gái của Xương Xán ở Chư Vệ, và được vua Trần Thái Tông cho vào cung hầu cận, dần trải đến chức Thị lang. Sau, đổi ông qua giúp việc dưới trướng của Chương Hiến hầu Trần Kiện (con thứ của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, và là cháu nội vua Trần Thái Tông), rồi theo vị quan này vào trấn giữ Nghệ An.
Đầu năm Ất Dậu (1285), Quân Nguyên từ Trung Quốc chia làm ba đạo tiến đánh Đại Việt (Việt Nam ngày nay) lần thứ hai. Lúc bấy giờ, đạo quân thứ 3 do tướng Toa Đô chỉ huy đang ở Chiêm Thành tiến đánh lên. Lập tức, Hưng Đạo Vương bàn với Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra quân chặn đánh ở Nghệ An. Tháng 2 (âm lịch) năm ấy, Trần Kiện và liêu thuộc (trong số đó có Lê Trắc) đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên [3].
Trên đường lưu vong sang Yên Kinh (kinh đô nhà Nguyên, nay là Bắc Kinh), Trần Kiện bị quân phục kích nhà Trần bắn chết ở Lạng Giang (ở phía bắc tỉnh Bắc Giang ngày nay). Lê Trắc liều mình cướp được xác chủ mang sang Khâu Ôn (thuộc Lạng Sơn) chôn cất.
Lê Tắc kể:
..."Tháng 4 (Ất Dậu)...Minh Lý Tích Ban đem bọn Chương Hiến (Trần Kiện) vào bệ kiến Thiên tử (nhà Nguyên). Đi đến trại Chi Lăng, bị quân Nam chặn đánh rất gấp. Đang đêm, ...Chương Hiến bị địch quân dồn ép giết chết trên lưng ngựa. Tắc ôm thây ruổi chạy mấy mươi dặm, ra Khâu Ôn an táng. Những thuộc lại đi theo Chương Hiến, bị giết gần một nữa"...[4]
Sách Đại Việt sử ký toàn thư kể:
..."Tháng 2, ngày Giáp Thìn mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang là Chương Hiến hầu (Trần) Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên. Toa Đô sai đưa bọn Kiện về Yên kinh. Thổ hào Lạng Giang là bọn Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh tập kích ở trại Ma Lục (Chi Lăng). Gia nô của Trần Hưng Đạo là Nguyễn Địa Lô bắn chết Kiện. Trắc đưa xác Kiện lên ngựa, trốn đi đêm, chạy được vài chục dặm, tới Khâu Ôn chôn Kiện ở đó"...[5].
Mùa xuân năm Bính Tuất (1286), vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt phong cho Trần Ích Tắc (con vua Trần Thái Tông, đầu hàng và chạy sang Yên Kinh trong cuộc chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần thứ hai) làm "An Nam quốc vương". Các quan đi theo đều được phong chức tước theo thứ bậc, Lê Tắc được phong sắc Tòng thị lang, lãnh chức Chỉ huyện Lệnh doãn.
Năm Đinh Hợi (1287), quân Nguyên mượn tiếng đưa "An Nam quốc vương" Trần Ích Tắc về nước để tiến công Đại Việt lần thứ ba. Kết cuộc, lần này đại quân nhà Nguyên lại thua to hơn hai lần trước, khiến Lê Tắc đi theo lại phải chạy tháo thân sang Trung Quốc.
Lê Tắc kể:
..."Năm Đinh Hợi...Hoàng thượng (Hốt Tất Liệt) khiến Trấn Nam vương (Thoát Hoan) cùng Bình Chương Áo Lỗ Xích Khê (Ayuruychi) đem binh tiến thảo. Mồng ba tháng 9, quân khởi hành từ tỉnh Ngạc, tháng 11 đến An Nam (Việt Nam ngày nay)...Kế sau quân (nhà Nguyên) bị tan vỡ...mấy nghìn người chạy lạc đường đều bị vây hãm. Một mình Tắc dẫn Đạt Vạn hộ, Tiêu Thiên hộ (tên gì đều chưa rõ) và Thiêm Sự viện lĩnh phủ phán Lê Yến. Yến, trên ngựa bồng cậu bé 9 tuổi (Trần Dục), con của An Nam quốc vương (Trần Ích Tắc), cộng tất cả hơn sáu mươi kỵ mã quân, giết lính giữ ải, chạy về phương Bắc. Ngựa Lê Yến sức yếu, chạy thụt đường sau, gần bị quân Nam (chỉ quân nhà Trần) đuổi kịp. Tắc thương hại, đổi ngựa khỏe của mình cho Yến, mình đi sau quất ngựa Yến chạy tới để thoát nạn. Khốn nỗi, đường trước cũng bị quân Nam đón đánh, hai mặt giáp công, khiến vất vả muôn lần suýt chết, rong ruổi suốt mấy trăm dặm, từa nửa đêm đến mờ sáng, đến ải Châu Chiếu lạy mừng"....[6]
Năm Nhâm Thìn (1292), Lê Tắc được cấp hàm Phụng Sự lang, lĩnh hư chức đồng Tri châu An Tiêm. Về sau, ông cưới Tôn nữ họ Lý (con quốc vương trước, và là con nuôi Chương Hoài hầu, tức Trần Văn Lộng) làm vợ [7].
Vì bài "Tự sự" bị thiếu, nên không rõ quảng đời còn lại của ông. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì về sau Lê Tắc được bổ làm Phụng nghị đại phu ở đất Hán Dương (nay là các quận Hán Dương và Thái Điện, địa cấp thị Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc). Ở đây, ông sống gần như một ẩn sĩ. Không rõ ông mất năm nào.
Khi sống lưu vong ở Trung Quốc, ông kết giao với một số sĩ đại phu, hay ngao du sơn thủy và say mê nghiên cứu điển tịch. Khoảng năm 1307, Lê Tắc đã cơ bản (về sau ông còn bổ sung thêm) làm xong bộ sách An Nam chí lược (gồm 20 quyển, về sau thất lạc quyển 20), trong đó có 15 bài thơ của ông.
[B]Chú thích phần I:[/B]
[1] GS. Nguyễn Huệ Chi cho biết: "Lâu nay vẫn quen đọc là Lê Tắc (hay Trắc), nhưng Lê Mạnh Thát mới phát hiện ra cách đọc là "Lê Thực" qua lời chú của chính Đại Việt sử ký toàn thư (sách ở mục tham khảo, tr. 34).
[2] Ghi theo "Tự sự", bản dịch tiếng Việt in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1, tr. 530). Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1, tr. 44) ghi là "Lê Phụng".
[3] Theo Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2, bản dịch, tr. 51). Trong "Tự sự", thì Trần Kiện đem Lê Tắc và mấy vạn người đi chống cự với quân Toa Đô ở Thanh Hóa. Đánh trận ấy bị thua, liệu bề chống không nổi nữa, "bèn cùng bọn Tắc đem quân ra hàng" (nguồn đã dẫn, tr.531).
[4] Trích "Tự sự", nguồn đã dẫn (tr. 531). Các chữ trong ngoặc là của người soạn.
[5] Trích trong Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), bản dịch, tr. 51.
[6] Trích "Tự sự", nguồn đã dẫn (tr. 531-352). Các chữ trong ngoặc là của người soạn.
[7] "Tự sự" không ghi rõ “quốc vương trước” là ai.
[8] Theo Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học (bộ mới), tr.34.
[B]II. An Nam chí lược[/B] (chữ Hán: 安南志略, có nghĩa: "Lược ghi về An Nam"[1]), là một bộ sách sử viết bằng văn xuôi chữ Hán (nguyên bản có 20 quyển, nhưng hiện tại chỉ còn 19 quyển) do Lê Tắc (? - ?) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc ở khoảng nửa đầu thế kỷ 14. Nội dung sách ghi chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa, v.v...An Nam (Việt Nam ngày nay) từ ban đầu đến cuối đời Trần. Có lẽ đây là một công trình khảo cứu về Việt Nam lâu đời nhất còn lại, do một người Việt viết.
[B]Năm biên soạn[/B]
Không biết chính xác năm khởi soạn. Tuy nhiên, căn cứ vào ba bài Tựa viết cho An Nam chí lược vào năm Đinh Mùi (1307), có lẽ bộ sách được biên soạn trước đó, đến năm ấy, thì tác phẩm đã cơ bản hoàn thành, và còn được tiếp tục bổ sung thêm trong nhiều năm sau.
-Trích bài Tựa của Lưu Tất Đại:..."Trong năm Đại Đức thứ 11 (1307)...quan An Tiêm châu đồng tri là Lê phụng sự (chỉ Lê Tắc) đến thăm tôi tại công thự Ngọc đường, đưa ra bộ An Nam chí lược cho tôi xem....Đến lúc Lê phụng sự từ giã bệ rồng trở về, tôi có nói với ông rằng: Bộ sách này nên chép thêm, tôi sẽ nói với Sử quán, tâu lên Triều đình, phụng chiếu giao cho Bí phủ để bổ túc bộ Nhất Thống chí"...
-Trích bài Tựa của Hứa Thiện Thắng:..."Lê Tắc, người Đông sơn, bèn lấy sơn xuyên, phong thổ, nhân vật cổ kim, những sự biến cách và những cuộc hành động quân đội gần đây, biên thành một quyển sách"...
-Trích bài Tựa của Trình Cự Phu: "Gần đây tôi sắp đi đi ra đất Giang, Hán, có nghe nói dưới trướng Trần Vương (Trần Ích Tắc) có nhã sĩ hay văn. Nay coi bộ sách này quả không phải là lời nói ngoa...[2]
Không rõ sau đó, Lê Tắc đã soạn thêm những phần nào, chỉ biết mãi đến hơn 25 năm sau (1333 hoặc 1335), mới có bài Tự tựa của chính tác giả. (xem bên dưới). Và căn cứ vào câu "Nguyên Thống sơ nguyên..." ở cuối bài, mà một số nhà nghiên cứu, trong đó có H. Maspéro đã cho rằng bộ sách đã làm xong vào năm 1333 (năm này, Hoàng đế Nguyên Huệ Tông cho đổi niên hiệu là Nguyên Thống) [3].
Không đồng ý với ý kiến trên, sau khi khảo chứng, GS. Trần Kính Hòa (Chen Ching Ho, nhà nghiên cứu người Hồng Kông) đã cho rằng chữ “nguyên” trong "sơ nguyên" là chép hay khắc nhầm (vì kiểu chữ hơi giống nhau), lẽ ra phải là chữ “tam”, tức năm 1335. Ngoài ra, căn cứ vào một vài sự kiện xảy ra sau đó được ghi trong bộ sách, GS. Hòa còn kết luận rằng “An Nam chí lược không phải đã soạn xong vào dịp Lê Tắc viết bài Tự tựa, kỳ thực Lê Tắc vẫn tiếp tục gia bút cho đến năm Chí Nguyên Kỷ Mão (1339)”. Nhưng vì sao có bài Tự tựa đề năm 1335, GS. Hòa giải thích: “Hình như lúc ấy bộ này đã có cơ hội được đem ra ấn hành, song việc đó đến năm Chí Nguyên thứ 5 (1339) vẫn chưa được thực hiện”...[4].
Vì tác giả không đề năm khởi soạn, và vì năm hoàn thành bộ sách cũng chưa thật rõ ràng, nên có một số tác giả đã ghi là "An Nam chí lược được biên soạn vào đời Nguyên" (như trong bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu [quyển 14] biên soạn vào đời Càn Long, nhà Thanh, Trung Quốc), hoặc là "vào thế kỷ 14" (như H. Cordier trong cuốn Theo book of Ser Marco Polo xuất bản ở Luân Đôn năm 1924).
[B]Các truyền bản[/B]
Theo bài "Tựa" (giới thiệu ở bên dưới) của Học sĩ Âu Dương Huyền, thì trong năm Thiên Lịch (1328-1329) đời Nguyên Văn Tông, ông cùng với một số văn nhân khác được nhà vua cho làm chức Toản tu để soạn bộ Kinh Thế đại điển. Đến khi làm xong định dâng lên vua, thì có Đại học sĩ Hà Vinh dâng cuốn An Nam chí lược (gồm 20 quyển) của Lê Tắc, khiến vua ban chiếu giao cho thư cuộc, làm thành một quyển An Nam phụ lục để thêm vào bộ Kinh Thế đại điển, xếp ở mục “địa quan” (tức sử địa)...Tiếc rằng bộ sách này sau đó đã thất truyền.
Qua đầu đời nhà Minh, An Nam chí lược lại được chép trong bộ Vĩnh Lạc đại điển (soạn 1403, xong 1408), nhưng phần chép ấy sau đó lại bị thất truyền, nên không rõ A Nam chí lược trong Vĩnh Lạc đại điển (và cả trong Kinh Thế đại điển) chép ra sao. Chỉ biết đến khi Thanh Cao Tông (Càn Long) giáng chỉ soạn bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, và An Nam chí lược được đưa vào, thì nó chỉ còn 19 quyển.
Tóm lại, An Nam chí lược từng có mặt trong cả ba bộ sách lớn (được coi là “bách khoa toàn thư Trung Quốc”), và đã được nhiều danh sĩ khen ngợi trong các bài Tựa. Tiếc rằng Bản nguyên gồm 20 quyển đã thất truyền từ lâu, hiện giờ chỉ còn bản 19 quyển đang được lưu hành. Tuy vẫn có bản 20 quyển như: bản Văn lan các ở Tokyo (Nhật Bản), Bản sao của British Museum (Luân Đôn, Anh), ...nhưng kỳ thực các bản ấy chỉ lấy bản 19 quyển phân chia thành 20 quyển mà thôi...
Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì sau năm 1339, An Nam chí lược (20 quyển) mới được san khắc lần đầu, nhưng bản ấy về sau đã thất lạc [5]. Tuy nhiên, căn cứ nội dung bài Tựa (không đề năm) của Âu Dương Huyền (xem bên dưới), thì rất có thể sách được san khắc lần đầu trong khoảng niên hiệu Chí Nguyên (1335-1340, đời Nguyên Huệ Tông).
Bản An Nam chí lược thông dụng bấy lâu nay là san bản của nhà Lạc Thiện đường do Kishida Ginko (phiên âm tiếng Việt là Ngạn Ngâm Hương, người Nhật Bản) ấn hành năm Minh Trị thứ 17 (tức năm Quang Tự thứ 10 của triều Thanh, 1884) tại Thượng Hải (Trung Quốc). Trong bài Tựa, ông cho biết đây bản của Thiếu Thiềm Tiền Trúc Đinh tự tay hiệu chính, và trước kia nó thuộc tàng thư cũ của Ngũ Nghiện lầu. Bộ sách này chỉ có 19 quyển, và đã được Phan Duy Tiếp dịch rồi in rônêô tại miền Bắc Việt Nam vào năm 1959.
Ngày 31 tháng 3 năm 1960, sau khi đã tổ chức phiên dịch, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam trực thuộc Viện Đại học Huế đã giới thiệu một bộ An Nam chí lược mới. Theo "Phàm lệ", thì Ủy ban đã lấy bản của Lạc Thiện đường, bản sao của Tiền Đại Hân tự tay hiệu đính (hiện tàng trữ tại Nội các Văn khố Nhật Bản), bản sao của Văn lan các (hiện tàng trữ tại Đông Kinh Tỉnh Gia đường văn khố) và bản sao ở Đại Anh Bác vật quán (Luân Đôn, Anh) để làm ra, và đặt tên là An Nam chí lược hiệu bản.
Năm 2012, An Nam chí lược hiệu bản lại được giới thiệu đầy đủ trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1) do nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành.
[B]Tự tựa và Tựa của Âu Dương Huyền[/B]
Dưới đây là "Tự tựa" của Lê Tắc (dịch từ chữ Hán ra tiếng Việt) cho biết lý do làm ra An Nam chí lược, và các sách mà ông đã dùng để tham khảo trong quá trình biên soạn.
"Tôi sinh trưởng ở đất Nam Việt, đã làm quan ăn lộc của bản quốc. Trong mười năm về trước, đi xứ nọ qua xứ kia, trải khắp nửa nước An Nam, hơi biết được hình thế sơn xuyên địa lý. Từ khi nội phụ Thánh triều (nhà Nguyên) đến nay đã hơn năm mươi năm rồi. Tự xét đã quê mùa lại ngây dại, học thức theo lối xưa mà không thấu đáo, đến tuổi già lại ham sách, tiếc rằng đã muộn, nên các văn tịch cổ kim không thể xem hết được.
"Nhân trong lúc rảnh thì giờ, gom góp lượm lặt những điều đã ghi trong quốc sử các triều đại, Giao Chỉ đồ kinh,lại tham khảo bộ Phương kim bổ nhất điển cố, mà làm ra bộ An Nam chí lược, 20 quyển.
"Người xưa có nói: “đạo trời chỉ có một mà thôi vậy”. Nay ta ở trong khoảng trời đất che đất chở, đều phải có trật tự, lễ nghĩa, vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con, nếu không có cái tính tốt ấy, thì làm sao cho hợp với lẽ trời?
"Huống chi Thanh giáo đã lan tràn tới Nam Giao từ đời Đường, Ngu đến nay hơn 3.000 năm, cho nên sự ưa chuộng về thanh danh, văn vật gần như Trung Quốc, tuy rằng phong thổ có khác, nhưng sự tích nhiều chỗ đáng hi chép, không nên bỏ qua. Tiếc rằng các nhà kỷ thuật nói thì rộng mà phần nhiều trái ngược nhau.
"Cuốn này căn cứ vào kiến văn và lấy tài liệu của các sách, nhưng không khỏi có chỗ sai lầm, xin các vị chư quân tử, thấy chỗ nào sơ lược thì cải chính cho.
"Ất Mão, Nguyên Thống sơ nguyên, tiết thanh minh, mùa xuân, Cổ Ái, Lê Tắc tựa"[6].
Ngoài bài "Tự tựa" của tác giả, trong các bản lưu truyền, còn có các bài Tựa của các danh sĩ Trung Quốc (phần lớn là của các danh sĩ đời Nguyên), Kishida Ginko (người Nhật Bản, đề Tựa năm 1884),... Bên dưới đây, chỉ giới thiệu bài "Tựa" của Học sĩ Âu Dương Huyền, vì nó có liên quan đến khoảng thời gian ra đời của An Nam chí lược.
"Trong năm Thiên Lịch (1328-1329, đời Nguyên Văn Tông), tôi làm quan Tượng Khuê Chương học sĩ, đồng thời cùng chung làm chức Toản tu để soạn bộ Kinh Thế đại điển; làm xong định dâng lên vua, vừa khi Đại học sĩ Hà Vinh lấy bộ sách An Nam chí lược của ông Lê Tắc dâng lên, được lời chiếu vua, khiến giao cho thư cuộc, bèn làm một quyển An Nam phụ lục, để cho thuộc môn địa quan.
"Trong niên hiệu Chí Nguyên (1335-1340, đời Nguyên Huệ Tông), tôi được triệu lên Đại Đô (Bắc Kinh), qua đất Giang Hán, ông Lê Tắc lấy bộ Chí lược ấy trình với tôi mà xin bài Tựa. Thiết tưởng nhà Thánh Nguyên chí nhân như trời, bao hết thiên hạ, không kể xa gần, khiến vua tôi Nam Giao được cấp bổng lộc sống ở Trung Quốc tính đã mấy mươi năm, không có mảy may Ông Lê Tắc được nhà hạ, rong chơi, tự ý sáng tác văn chương, đã vẽ vời được địa hình của bản quốc (Việt Nam), lại thêm chi tiết về thổ nghi, phong tục, sản vật và nhân vật. Hơn nữa còn thu lượm được các mục văn tự của sứ thần Nam, Bắc qua lại. Nếu không phải nhờ đức hóa thấm nhuần, thanh giáo phổ biến, sao có thành tích như vậy? Xưa đức Khổng Tử dọn bớt Kinh Thi, để lại chương Thức Vi [7] trong thiên Vệ Phong, tuy việc này chứng tỏ ý buồn của người ký ngụ, nhưng đương thời bây giờ, không ai giúp đỡ được người ấy, do việc này cũng đủ biết rõ.
"Lấy đó mà suy luận, thì các nhà văn học hiện nay cũng nên nêu ra An Nam chí lược, tán tưởng để cho đời sau hiểu rõ giá trị của bộ này. Nước nhà có đức dìu dắt người phương xa và bao bọc cả bốn phương, truyền lại muôn đời, phải chăng sẽ nhờ bộ sách này?
"Lê quân (Lê Tắc) biệt hiệu Đông Sơn, tính ưa đọc sách, hiếu cổ, càng già càng phát huy. Còn những bài thơ khác (của ông), có thể truyền đời sau cũng rất phong phú.
"Hàn Lâm Thị giảng Học sĩ, Âu Dương Huyền tựa".
[B]Mục lục và nội dung (sơ lược)[/B]
Dưới đây là mục lục sách An Nam chí lược được giới thiệu trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1), kèm theo là nội dung tóm tắt (phần để trong ngoặc) của GS. Nguyễn Huệ Chi và của An Nam chí lược hiệu bản. Ở các bản khác, phần mục lục có dị biệt một vài chỗ.
Quyển nhất, gồm 10 mục:
-Địa lý đồ (bản đồ địa lý Việt Nam, phần này đã mất)
-Tổng tự (lịch sử tổng quát của Việt Nam từ thượng cổ đến đời Trần)
-Quận ấp
-Sơn
-Thủy
-Cổ tích
-Đường An Nam Đô hộ nguyên lệ châu quận (tên các châu quận vốn có trong An Nam đô hộ phủ đời Đường)
-Phong tục (nói sơ về phong tục Việt Nam lúc bấy giờ)
-Biên cảnh phục dịch (nói sơ về nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Liêu Tử)
-Trắc ảnh (đo bóng mặt trời).
Quyển hai, gồm 2 mục:
- Đại Nguyên chiếu chế (gồm các giấy tờ triều Nguyên gửi cho triều đình Việt Nam)
-Tiền triều thư mạng (gồm các bức thư và sắc chỉ của các triều đại Trung Quốc trước triều Nguyên gửi các triều đại Việt Nam)
Quyển ba, gồm 2 mục chính:
-Đại Nguyên phụng sứ (các sứ thần triều Nguyên sang Việt Nam). Phụ chép cuộc sứ trình của Trương Lập Đạo sang Việt Nam, và bài tựa tập Sử Giao lục (Ghi chép chuyện đi sứ Giao Chỉ) của Tiêu Phương Nhai (tức Tiêu Thái Đăng) nói về cuộc đi sứ sang Việt Nam năm 1294.
-Tiền triều phụng sứ (các sứ thần của các triều đại trước triều Nguyên sang Việt Nam)
Quyển bốn, gồm 2 mục:
-Chinh thảo vận hướng (việc tải lương trong cuộc xâm lược Việt Nam của nhà Nguyên)
-Tiền triều chinh phạt (việc chuẩn bị lương thảo của các triều đại trước nhà Nguyên trong những lần hành quân xâm lược Việt Nam)
Quyển năm, gồm 2 mục:
-Đại Nguyên danh thần vãng phục thơ vấn (thư từ của các quan chức triều Nguyên giao thiệp với Việt Nam)
-Tiền triều thư sớ (thư từ của các triều đại trước nhà Nguyên giao thiệp với Việt Nam)
Quyển sáu, gồm 2 mục:
-Biểu chương (thư biểu của các vua nhà Trần gửi nhà Nguyên trong các năm)
-Tiền đại thư biểu (thư biểu của Triệu Đà, Lê Hoàn...gửi các triều vua Trung Quốc, trước triều Nguyên)
Quyển bảy, gồm 1 mục chính:
-Hán Giao Châu, Cửu Chân, Nhật Nam thứ sử, thái thú (các quan Thứ sử, Thái thú ở quận Giao Châu, Cửu Chân, Nhật Nam). Phụ Tam Quốc thời thứ sử (phụ chép các quan Thứ sử, Thái thú đời Tam Quốc)
Quyển tám, gồm 1 mục chính:
- Lục Triều Giao Châu thứ sử, đô đốc; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, thái thú (các Đô đốc, Thứ sử Giao Châu, các Thái thú ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trong thời Lục Triều)
Quyển chín, gồm 2 mục chính:
- Đường An Nam đô đốc, đô hộ, kinh lược sứ, Giao, Ái, Hoan tam quận thứ sử (các quan Đô đốc, Đô hộ, Kinh lược sứ An Nam và các quan Thứ sử ba quận là Giao Chỉ, Ái Châu, Hoan Châu vào đời nhà Đường). Phụ Thiên Oai Kỉnh tân tạc hải phái bia (phụ chép bài văn bia Thiên Oai Kỉnh, đường kênh mới đào)
-Tống Giao Châu chuyển vận sứ, an vũ sứ (nói về Hầu Nhân Bảo, Thiệu Diệp)
Quyển mười, gồm 1 mục:
- Lịch triều ky thần (hay cơ thần, chép về những viên quan Trung Quốc bị đày hoặc bỏ trốn sang Việt Nam ký ngụ)
Quyển mười một, gồm 4 mục chính:
-Triệu thị thế gia (Gia thế, dòng dõi của Triệu Đà). Phụ chép bài Nam Việt hành của quan Gián nghị nhà Tống là Chu Chi Tài.
-Ngũ đại thời tiếm thiết (những người tiếm xưng vương hiệu thời Ngũ Đại: Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền)
-Đinh thị thế gia (Gia thế, dòng dõi của Đinh Bộ Lĩnh)
-Lê thị thế gia (Gia thế, dòng dõi của Lê Hoàn) [8]
Quyển mười hai, gồm 1 mục:
-Lý thị thế gia (Gia thế, dòng dõi nhà Lý)
Quyển mười ba, gồm 1 mục:
-Trần thị thế gia (Gia thế, dòng dõi nhà Trần). Phụ chép Nội phụ hầu vương (các Vương hầu nội phụ: Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng, Trần Kiện)
Quyển mười bốn, gồm 5 mục nói về Việt Nam:
-Học hiệu (tình hình giáo dục)
-Quan chế (quy chế quan lại)
-Chương phục (mũ áo phẩm phục)
-Hình chánh (việc cai trị)
-Binh chế (tổ chức quân đội)
-Lịch đại khiển sứ (sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc trong các triều đại)
Quyển mười lăm, gồm 2 mục chính, 1 mục phụ:
-Nhân vật (nói về những người Việt Nam, gồm nhiều tiểu mục nhỏ: người nhận tước mệnh của các triều đại của Trung Quốc, người sang làm quan ở Trung Quốc, người có tên tuổi, phụ nữ tiết nghĩa, nhà sư có tiếng, người chống lại chính quyền đô hộ: Trưng Trắc, Bà Triệu, Lý Bí, Dương Thanh, Nùng Trí Cao)
-Vật sản (các loại sản vật quý của Việt Nam)
-Phụ: Lâm Ấp (phần này đã mất)
Quyển mười sáu, gồm 2 mục:
-Tạp ký (chuyện vặt vãnh). Phụ chép bài "Liễu Tử Hậu vị An Nam Dương thị ngự tế Trương Đô hộ văn" (bài văn của Liễu Tử Hậu làm cho quan Thị ngự An Nam họ Dương tế quan Đô hộ họ Trương)
-Lịch triều danh hiền tạp vịnh (một số thơ văn của các bậc danh hiền Trung Quốc đề vịnh về Việt Nam)
Quyển mười bảy, gồm 2 mục:
-Chí Nguyên dĩ lai danh hiền phụng sứ An Nam thi (thơ văn của các sứ thần triều Nguyên sang Việt Nam từ niên hiệu Chí Nguyên [đời Nguyên Huệ Tông] trở về sau)
-Ngọc Đường chư công tặng Thiên sứ thi tự (những bài tựa và thơ của các quan Hàn lâm viện đưa tặng các sứ giả triều Nguyên sang Việt Nam)
Quyển mười tám, gồm 1 mục:
- An Nam danh nhân thi (thơ của các vua quan triều Trần, trong đó có tác giả)
Quyển mười chín, gồm 2 mục:
-Đồ chí ca (bài thơ trường thiên của tác giả viết về mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc)
-Tự sự (tự kể chuyện về thân thế của tác giả). Sau đó là ba bài viết ngắn (viết năm 1812, 1814 và một bài không ghi năm) nói về A Nam chí lược của Phục Ông (tức Hoàng Phi Liệt) và bài Lời cẩn bạch của Kishida Ginko (viết năm 1884) [9]
Quyển hai mươi, gồm 1 mục:
-Danh công đề vịnh An Nam chí (nay đã mất)
***
Trong các bài Tựa của các danh dĩ triều Nguyên viết cho bộ An Nam chí lược, đều có lời khen ngợi tác giả và tác phẩm, mà bài Tựa của Âu Dương Huyền vừa giới thiệu bên trên chỉ là một trong số đó... Đến đời Thanh, trong bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu (soạn đời Càn Long) cũng đã có lời khen ngợi như sau:
..."Các sự biên chép như trên (trong An Nam chí lược) càng đủ chứng tỏ các bộ Nguyên sử có nhiều thiếu sót. Còn như biên chép các loại sơn xuyên, nhân vật thì rõ ràng đầy đủ, thật có công tìm tòi, kê cứu...không kém gì bộ sử Cao Ly vậy.
Đối với các nhà nghiên cứu người Việt, có ý kiến cho rằng, tác giả đã đứng trên quan điểm của người Nguyên để soạn An Nam chí lược, bằng lời lẽ xu phụ, nên đã bị một số sĩ phu khinh miệt cho tác giả là "tiểu nhân nho", là "phản bội tổ quốc" [10]. Song, cũng có ý kiến khác cho rằng, tuy làm quan cho nhà Nguyên, nhưng tác giả vẫn có lòng tưởng nhớ cố hương, và cách soạn sách theo quan điểm nhà Nguyên là việc bắt buộc phải uốn theo triều đại mà ông phục vụ.
Mặc dù có những hạn chế về mặt quan điểm, nhưng An Nam chí lược vẫn được coi là một bộ sách lớn, xuất hiện sớm, có giá trị nhiều mặt, do một người có trình độ học vấn cao viết về thời đại mình đang sống (thời nhà Trần) trở về trước. Khái quát về mặt ưu và khuyết của tác phẩm, GS. Nguyễn Huệ Chi, viết:
"Đây là một bộ sách tập hợp sử liệu và văn liệu về Việt Nam, thiên về một phương diện: trình bày mối quan hệ lịch sử nhiều mặt giữa Việt Nam và Trung Quốc. Do được viết trong thời gian quy phụ[18] “Thiên triều”, tác giả phải tô đậm tính chất lệ thuộc trong mối quan hệ ấy. sử bút của tác giả vì thế mất tính khách quan, và ngôn từ trong sử cũng như trong thơ thường lộ rõ giọng người quy phụ. Tuy nhiên, cũng nhờ được tiếp xúc với sách vở Trung Quốc thuở ấy, tác giả đã ghi lại được khá nhiều tư liệu hiếm hoi liên quan đến lịch sử, văn hóa Việt Nam. Phần thư tín ngoại giao giữa hai nước cũng cung cấp được ít nhiều tác phẩm văn học thuộc loại hình văn xuôi luận chiến vốn có truyền thống rất sớm ở nước ta"'...[11]
[B]Chú thích phần II:[/B]
[1] An Nam là tên gọi nước Việt Nam thời xưa, xuất hiện từ năm 679 khi nhà Đường (Trung Quốc) đổi tên "Giao Châu đô phủ" thành "An Nam đô hộ phủ", và tồn tại đến đầu thế kỷ 10 (sau đó đổi tên thành "Giao Chỉ quận"). Từ năm 1777 (đầu đời Lý Cao Tông), các vương triều Trung Quốc thường dùng tên "An Nam quốc" để chỉ nước Việt Nam ngày nay, và phong cho các vua Việt Nam tước hiệu là "An Nam quốc vương" (theo Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, 1995, tr. 44).
[2] Chép theo các bản dịch in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1), phần “An Nam chí lược”.
[3] Bài Le protectorat général d’ Annam sous les T’ang (BEFEO., 1910, t. X, p. 540.
[4] Xem chi tiết trong bài "Soạn niên, tài liệu và truyền bản của An Nam chí lược" của GS. Trần Kính Hòa, sách ở mục tham khảo, tr. 69-84.
[5] Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Lê Tắc" , tr.34-35.
[6] Phiên âm Hán-Việt của câu này là: “Nguyên thống sơ nguyên Ất Mão, xuân thanh minh tiết, Cổ Ái, Lê Tắc tựa” (theo Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập 1, tr.100). Theo sự khảo chứng của Trần Kính Hòa thì nó phải là “Nguyên Thống sơ tam Ất Hợi” tức năm 1335. Theo Trần Văn Giáp (tr. 584), thì phiên âm của câu này là: “Nguyên thống sơ nguyên Ất Mão xuân, thanh minh tiết, Cổ Ái, Lê Tắc tựa” (dấu phẩy nằm sau chữ xuân). Và theo ông, Ất Mão phải hiểu là “tháng Ất Mão” mới đúng Vì năm 1333 (là năm Quý Dậu) và năm 1335 (là năm Ất Hợi) đều không phải là năm Ất Mão. Tính ra, tháng Ất Mão chính là tháng 2 của năm Quý Dậu, phù hợp với chữ “xuân” ở trong câu.
[7] Đây là một bài trong ca dao nước Vệ (Vệ Phong) do một người tôi trung nước Vệ làm ra để hoài cảm đất nước.
[8] Trong mục lục của Trần Văn Giáp (tr. 585), thì quyển 10 gồm có "Lịch triều ky thần", "Triệu thị Thế gia", "Ngũ đại thời tiếm thiết". Quyển 11 chỉ có "Đinh thị thế gia" và "Lê thị thế gia". GS. Nguyễn Huệ Chi cũng chép giống như thế.
[9] Hoàng Phi Liệt (1763-1825), tự Nghiêu Phố, là người Giang Tô, đỗ Cử nhân năm 1788. Ông học giỏi, thích tàng trữ sách cổ. Ông có nhiều tác phẩm nói về các sách cổ. Kishida Ginko (1833-1805), sinh ra ở Okayama (Nhật Bản); là nhà báo, nhà nghiên cứu Trung Quốc và là một doanh nhân.
[10] Theo Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, 1992, tr. 376). Một trong số người có quan điểm này, là Cao Văn Luận (Giáo sư, Viện trưởng Viện Đại học Huế). Ông viết: "Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm của người Nguyên để soạn...Ủy ban (phiên dịch sách An Nam chí lược) không có chút ý định nào dung thứ những hành động và quan niệm sai lầm của soạn giả đối với Tổ quốc" (trích trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1, tr. 65). Tuy nhiên, phê phán gay gắt nhất, có lẽ là Trần Thanh Mại. Theo ông, thì đó là "một quyển sử nhục nhã của kẻ bán nước" (dẫn lại theo Vũ Ngọc Khánh, tr. 85).
[11] Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Lê Tắc" , tr.34-35.
Sách tham khảo:
-Lê Tắc, "Tự sự". Bản dịch tiếng Việt in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1, tr. 99-100). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2). Bản dịch tiếng Việt do Nxb Khoa học xã hội ấn hành năm 1985.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Lê Tắc" in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ "An Nam chí lược" in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
-Trần Kính Hòa, "Soạn niên, tài liệu và truyền bản của An Nam chí lược" in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
- Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam trực thuộc Viện Đại học Huế, An Nam chí lược hiệu bản, in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1).
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (trọn bộ 2 tập). Nxb Khoa học xã hội, 2003.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1992.
- Vũ Ngọc Khánh, Người "có vấn đề" trong sử nước ta, Nxb Văn hóa-thông tin, 2008.
[B]Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.[/B]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét