Hình ảnh

Hình ảnh

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Hoàng Đức Lương, nhà thơ Việt Nam thời Hậu Lê

Hoàng Đức Lương (? - ?) là văn thần và là nhà thơ Việt Nam thời Hậu Lê. Ông là người biên soạn bộ "Trích diễm thi tập" có tiếng trong lịch sử thơ ca Việt Nam.

1. Tiểu sử:
Ông là người làng Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên; sau dời về ở làng Ngọ Kiều, huyện Gia Lâm, trấn Kinh Bắc; nay thuộc ngoại thành Hà Nội.

Không rõ thân thế, chỉ biết ông đỗ Nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất (1478) dưới triều vua Lê Thánh Tông, được bổ chức quan, làm đến Tham nghị.

Năm 1489 [1], ông được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc giao thiệp với nhà Minh; trở về được thăng Tả thị lang bộ Hộ.

Hoàng Đức Lương mất năm nào không rõ.

2. Tác phẩm:
Ngoài sáng tác của ông, hiện còn 25 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục và Hoàng Việt thi tuyển; ông còn biên soạn bộ Trích diễm thi tập (Tập thơ tuyển chọn những bài thơ đẹp), gồm 15 quyển (theo Lê Quý Đôn, nhưng hiện chỉ còn 6 quyển). Đây là tập hợp tuyển thơ của các nhà thơ có tiếng đời Trần và các danh gia đời Lê sơ.

Nhìn chung, thơ của ông khá thâm trầm, ý nhị, đẹp một cách kín đáo và giản dị. Nhưng để có những câu tưởng chừng đạm nhã và thoát sáo đó, ngòi bút của tác giả đã phải dụng công rất nhiều (Tự trào).

3. Giới thiệu thơ:
Dưới đây là bốn bài thơ của ông:

1. Tự trào
Tính tích thù kham tiếu,
Ngâm đa diệc bất công.
Dạ thâm tài đắc cú,
Mãnh khỉ cấp hô đồng.
Dịch nghĩa:
Tự cười minh
Buồn cười cho tính ngông của mình,
Cứ ngâm nga nhiều mà thơ chẳng hay.
Có lúc đêm khuya nghĩ được một câu,
Đã vùng dậy gọi vội tiểu đồng.

2. Thôn cư
Tang ám tằm chính miên,
Thiềm đê yến sơ nhũ.
Lực quyện hạ sừ qui,
Trú vĩnh cưu thanh ngọ.
Dịch nghĩa:
Ở làng quê
Dâu xanh tốt chính là lúc tằm ngủ,
Ngoài hiên thấp, chim én đang nớm cho con.
Mệt mỏi, thì vác cuốc về nghỉ,
Ngày dài, chim cưu kêu lúc bóng tròn.

3. Hoàng Đường hạ bạc
Giang thượng cô chu khách dạ trì,
Nhất ban tâm sự thiểu nhân tri.
Vô đoan thụy khởi bằng cao chẩm,
Nguyệt đạm phong khinh tế tế xuy.
Dịch nghĩa:
Bến sông Hoàng [2] ban đêm
Chiếc thuyền lẻ loi trên sông, đêm đất khách qua chậm,
Bầu tâm sự của khách ít người thấu hiểu.
Bổng dưng thức giấc ngồi tựa gối cao,
Bên ngoài, trăng mờ gió nhè nhẹ thổi.
4. Thu hạ quan thư
Khai quyển thâm âm hạ,
Dung quang chiếu tự minh.
Tĩnh trung tâm dị động,
Lạc diệp tác thu thanh.
Dịch nghĩa:
Đọc sách dưới bóng cây
Ngồi đọc sách dưới bóng cây,
Ánh sáng le lói, dung mạo cũng tươi tắn.
Cảnh thanh tĩnh, lòng dễ xao động,
Lá rụng làm thành tiếng thu.

4. Giới thiệu "Trích diễm thi tập":
Theo Lê Quý Đôn (Kiến văn tiểu lục, Thiên chương, Q.4, tờ 12-13) và Bùi Huy Bích (Lời tiểu dẫn trong Hoàng Việt thi tuyển), thì đây là bộ thi tuyển thứ ba; sau các bộ Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên, Cổ kim thi gia tinh tuyển của Dương Đức Nhan, và trước bộ Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn.

Căn cứ bài Tựa của soạn giả là Trần Đức Lương viết năm 1497, thì bộ Trích diễm thi tập chắc đã hoàn thành trong khoảng thời gian ấy.

Cũng theo Lê Quý Đôn, bộ hợp tuyển này gồm 15 quyển, tuyển chọn thơ của các nhà thơ có tiếng đời Trần (từ Nguyễn Trung Ngạn) đến đầu đời Lê (đến Đàm Văn Lễ, cuối sách có phụ thêm một số bài thơ của người soạn là Trần Đức Lương); nhưng đến thời ông chỉ "còn lại chưa đầy một nửa". Sau thế kỷ 18, phần còn lại đó cũng bị thất lạc một thời gian dài, mãi gần đây mới tìm lại được.

Văn bản mới tìm ra này gồm 6 quyển, có nguyên vẹn bài Tựa của soạn giả viết vào năm Hồng Đức thứ 28 (1497), và phần thơ ngũ tuyệt và thất tuyệt; nhưng thiếu hẳn phần thơ ngũ ngôn bát cú và thất ngôn bát cú. Đối chiếu với những bài thơ Lê Quý Đôn đã chép lại trong Toàn Việt thi lục, có thể khẳng định bản Trích diễm thi tập hiện nay cũng gần giống với bản đã “sứt mẻ” mà Lê Quý Đôn đã có.

Dụng ý làm ra bộ Trích diễm thi tập đã được Hoàng Đức Lương nói rõ trong bài Tựa của ông. Đó là biểu hiện của tấm lòng trân trọng đối với di sản tinh thần của quá khứ, là một việc làm cụ thể nhằm bổ cứu cho tình trạng mất mát đáng tiếc trong lịch sử văn học Việt Nam trước thế kỷ 15; và đó cũng chính là ý thức muốn góp phần vào việc xây đắp truyền thống văn hóa văn nghệ lâu đời của dân tộc Việt, nhằm nâng cao thêm uy tín và địa vị tự chủ của nước nhà.

Trong khi định nghĩa và đánh giá thơ, Hoàng Đức Lương đã xác định đặc trưng của thơ là "đẹp". Cái "đẹp" này khác hẳn về chất so với mọi cái đẹp vât chất và tinh thần khác. Nên khi soạn bộ Trích diễm thi tập, ông không lấy tiêu chuẩn "vua, quan, dân thường" làm thứ tự ưu tiên, mà chỉ lấy thơ hay làm tiêu chuẩn, và sắp xếp theo thể loại.

Mặc dù chưa tìm được trọn bộ, nhưng bản Trích diễm thi tập gồm 6 tập, vẫn là "bộ sách rất quý, bởi nó đã bổ sung được một số bài thơ và một số nhà thơ mà hai bộ thi tuyển trước đó (Việt âm thi tập và Cổ kim thi gia tinh tuyển) đã bỏ sót hoặc vì lý do nào đó đã không tuyển chọn vào".


Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Chú thích:
[1] Chép theo Từ điển văn học (bộ mới. tr. 613) và Văn học thế kỷ XV-XVII (tr. 499). Tuy nhiên tra trong Đại Việt sử ký toàn thư (Quyển II, bản dịch do NXB Khoa học xã hôi ấn hành 1985, tr. 507), thì rất thể Hoàng Đức Lương đi trong đoàn sứ bộ của Đàm Văn Lễ vào năm Hồng Đức thứ 19 (1488).
[2] Bến sông Hoàng tức là bến đò trên bờ Hoàng Giang, một khúc sông xưa kia chảy qua Gia Lâm đổ vào Nhị Hà (sông Hồng), nhưng nay đã lấp.

Sách tham khảo:
-Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ “Hoàng Đức Lương” in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
-Trần Thị Băng Thanh (chủ biên), Văn học thế kỷ XV-XVII, mục từ: " Hoàng Đức Lương ". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2004.
-Nguyễn Q. Thắng- Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ: " Hoàng Đức Lương". Nhà xuất bản Khoa học, 1992.

Không có nhận xét nào: