Lý Văn Phức (1785–1849), tự là Lân Chi, hiệu Khắc Trai và Tô Xuyên; là một danh thần triều Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam.
Ông sinh ở làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội (nay là phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội).
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho gốc Phúc Kiến (tổ tiên ông từng làm quan nhà Minh, sang Việt Nam lánh nạn khi quân Mãn Thanh vào xâm chiếm Trung Quốc).
Cha ông là một nhà Nho nghèo, không đỗ đạt gì, vừa làm nghề thuốc vừa dạy học.
Năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), Lý Văn Phức thi đậu Hương tiến (Cử nhân), được bổ làm Hàn lâm biên tu, sung Sử quán. Sau đó, ông lần lượt trải qua các chức vụ: Lễ bộ kiến sự, Hộ bộ Hữu thị lang, Tham Tri, Chủ khảo trường thi Hương Gia Định (1828).
Năm 1829, đời vua Minh Mạng, ông đang làm công việc Hộ chính thì bị triều đình kết án, nhưng được nhà vua ân xá cho đi hiệu lực ở Tiểu Tây dương (tức Bengale) để lấy công chuộc tội (1830).
Từ năm 1831 cho đến năm 1836, sau khi khôi phục ông hàm Tư vụ, lần lượt cử ông đi công cán ở các nơi: Tân Gia Ba (Singapore), Lữ Tống (tức đảo Luçon thuộc philippin), Phúc Kiến, Việt Đông (Quảng Đông), Áo Môn (Ma Cao).
Năm 1841, đời vua Thiệu Trị, Lý Văn Phức được thăng làm Tham tri bộ Lễ, và được cử đi sứ Yên Kinh (tức Bắc Kinh). Nhân các cuộc đi này, ông sáng tác được nhiều tập văn thơ.
Năm 1843, ông được cử làm Chủ khảo trường thi Hương Nghệ An.
Năm 1849, thăng ông làm Quang lộc tự khanh. Cũng trong năm này ông mất khi tại chức, hưởng thọ 64 tuổi, được truy tặng Lễ bộ Hữu thị lang.
Lý văn Phức để lại một di sản khá đồ sộ bằng chữ Hán và chữ Nôm. Theo thông kê chưa đầy đủ, hiện có:
1. Chữ Hán:
-Học ngâm tồn thảo, gồm 80 bài thơ viết khi vừa thi đỗ cho đến khi bắt đầu làm quan (1819).
-Tây hành thi ký (Ghi chép bằng thơ trong chuyến đi sứ về phía Tây), gồm 45 bài thơ.
-Hải hành ngâm (Ngâm trong lúc đi trên biển).
-Tây hành kiến văn kỷ lược (lược ghi những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi về phía Tây), gồm những ghi chép trong dịp đi hiệu lực ở vùng biển Tiểu Tây dương năm 1830.
-Nghĩ Vô Danh công tự thuật phú (Phú tự thuật của ôngVô Danh, tức Lý Văn Phức), viết sau chuyến đi hiệu lực đến Tân Gia Ba (Singapore) năm 1831.
-Mân hành tạp vịnh thảo (Tạp vịnh trong chuyến đi đến đất Mân), là tập thơ làm trên đường đi sang đất Mân Việt (Phúc Kiến, Trung Quốc).
-Đông hành thi tạp lục (Tạp ghi bằng thơ trong chuyến đi về phía Đông), làm trong chuyến đi công cán đến Lữ Tống năm 1832.
-Việt hành ngâm thảo (Thơ ngâm trong chuyến đi Việt Đông).
-Việt hành tục ngâm (Thơ ngâm tiếp trong chuyến đi Việt Đông).
-Tam chi Việt tạp thảo (Tạp ghi trong lần thứ ba đến Việt Đông).
-Kinh hải tục ngâm (Thơ ngâm tiếp khi đi trên biển), gồm 110 bài thơ vịnh cảnh, vịnh di tích trong lần đi công cán đến Áo Môn (Ma Cao) năm 1836.
-Chu Nguyên tạp vịnh thảo (Bản thảo những bài thơ tạp vinh ở đất Chu Nguyên).
-Hoàng hoa tạp vịnh thảo (Bản thảo những bài tạp vịnh trên con đường hoa). Hoàng hoa ý nói con đường đi sứ. Đây là tập thơ gồm 76 bài thơ và 1 bài Ký Nhị thị ngẫu đàm (Cuộc trò chuyện giữa hai họ Thích Ca và Lão Tử).
-Sứ trình chí lược thảo (Bản thảo lược ghi trên hành trình đi sứ).
-Sứ trình quát yếu biên (Tập sách biên chép tổng quát trên hành trình đi sứ). Cả ba tập sau đều làm trong dịp đi sứ sang Yên Kinh năm 1841.
Ngoài ra, ông còn có một số thơ văn đi sứ soạn chung với các tác giả khác.
2. Chữ Nôm:
-Sứ trình tiện lãm khúc (Khúc ngâm nhân quan sát trên hành trình đi sứ), kể về cuộc đi sứ đến Yên Kinh (tức Bắc Kinh) năm 1841.
-Chu hồi trở phong thán (Than thở về chyến trở về gặp gió bão), viết theo thể biền ngẫu, làm khi trên đường từ Tân Gia Ba trở về gặp gió bão năm 1834.
-Hồi kinh nhật ký (Nhật ký trên đường về kinh)
-Tự thuật phú (Phú tự thuật), viết theo thể tứ lục, kể thân thế của mình với mục đích đề cao đạo làm con.
-Bát phong lưu truyện (Truyện về người không phong lưu), thơ trường thiên, ý ám chỉ bản thân mình, làm năm 1815.
-Phụ châm tiện lãm (Giáo huấn phụ nữ), viết theo thể song thất lục bát.
-Nhị thập tứ hiếu diễn ca (Diễn ca 24 chuyện hiếu hạnh), viết theo thể song thất lục bát. Nguyên tác của Quách Cư Nghiệp đời Nguyên.
Ngoài ra ông còn diễn âm một số tác phẩm Trung Quốc thành truyện thơ Nôm:
-Tây sương (Mái Tây), dài 1.744 câu lục bát, dựa theo một vở kịch nổi tiếng ở Trung Quốc do Vương Thực Phủ đời Nhà Nguyên viết. Có người cho rằng người diễn Nôm không phải Lý Văn Phức mà là Nguyễn Lê Quang, bạn đồng liêu của ông.
-Ngọc Kiều Lê, dài khoảng 2.926 câu lục bát, dựa theo một tiểu thuyết cùng tên ở Trung Quốc.
-Cừu Đại Nương Trương Văn Thành diễn nghĩa, thể lục bát, viết theo một tiểu thuyết của Trung Quốc.
-Nhị độ mai diễn ca, thể lục bát, viết theo truyện Nhị độ mai của Trung Quốc. Nhiều người cho rằng đây là của một tác giả khuyết danh.
Nhận xét về ông, nhà nghiên cứu Trần Hải Yến viết:
Lý Văn Phức là một cây bút nhuần nhuyễn cà chữ Hán và chữ Nôm. Thơ văn ông nghiêng nhiều về những nét đời thường, cả trong miêu tả và cảm xúc. Tuy trong từng tác phẩm, từng thể loại, ông không có những đóng góp thật kiệt xuất...Nhưng có đủ lý do để nói rằng Lý Văn Phức là một tác gia tiêu biểu cho xu hướng tư tưởng và văn chương của giai đoạn nửa đầu thế kỷ 19 (Từ điển Văn học, bộ mới, tr. 928).
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Sách tham khảo:
-Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968, tr. 392.
-Trần Hải Yến, mục từ "Lý Văn Phức" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 926-928.
-Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Quyển Thượng), mục “Lý Văn Phức”. Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản, tr. 814-816.
-Hoàng Hữu Yên, Văn học thế kỷ 19, mục “Lý Văn Phức”. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2004, tr. 174.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét