Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

Hồ Nguyên Trừng và Nam Ông mộng lục

Hồ Nguyên Trừng và Nam Ông mộng lục
I.Tác giả:
Hồ Nguyên Trừng (chữ Hán: 胡元澄, 1374? - 1446?), nguyên họ Lê, tự: Mạnh Nguyên, hiệu: Nam Ông; là nhà kỹ thuật quân sự và là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 15.

Ông là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa); là con trai cả của vua Hồ Quý Ly, và là anh của vua Hồ Hán Thương.

Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Đầu năm 1400, cha ông truất ngôi Trần Thiếu Đế, tự lên ngôi vua, lập nên nhà Hồ. Sau đó, Hồ Nguyên Trừng được cử làm Tả tướng quốc.

Năm 1406, lấy cớ "Phù Trần diệt Hồ", vua nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh mang 80 vạn quân sang đánh nước Việt. Nhiều lần, Hồ Nguyên Trừng được giao nhiệm vụ cầm quân chống lại.

Ngày 12 tháng 5 (âm lịch) năm Đinh Hợi (1407), cả ba cha con ông và người cháu là Hồ Nhuế (con Hồ Hán Thương) đều bị quân nhà Minh bắt tại Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), rồi bị áp giải về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc). Kể từ đó, nhà Hồ mất, cả nước Việt rơi vào ách thống trị của nhà Minh.

Biết được Hồ Nguyên Trừng (và Hồ Nhuế) có tài năng, vua Minh Anh Tông cho ân xá, nhưng buộc phải đổi họ khác (vì không thừa nhận gia đình ông là dòng dõi Ngu Thuấn). Vì vậy ở sách Nam Ông mộng lục, tác giả đề tên là Lê Trừng (đổi lại họ Lê như cũ).

Sau, ông chế tạo được súng thần công, nên lại được làm quan ở bộ Công, thăng đến chức Tả thị lang như lời ông đề ở cuối bài Tựa trong quyển Nam Ông mộng lục.

Theo Minh sử, thì Hồ Nguyên Trừng được thăng chức Công bộ Thượng thư (1445) được một năm thì mất, thọ 73 tuổi.

Nguyên văn trong sách như sau (dịch):
Năm thứ 10 (Chính Thống), Kỷ Sửu (đúng ra là Ất Sửu, 1445), Lê Trừng, vương tử An Nam, nhậm chức (Công bộ thượng thư) vào tháng 6, chuyên lo cung cấp các thứ đồ dùng cho nội phủ. Bính Dần (1446), năm thứ 11, tháng 7, Trừng chết.
Sau đó, triều Minh cho con ông là Lê Thế Vinh (trước đó đang làm Chuyển vận sứ ở Diêm vận ty tỉnh Sơn Đông) làm Trung thư xá nhân, tiếp tục lo việc chế tạo quân khí.

Hiện mộ phần Lê Trừng (tức Hồ Nguyên Trừng), Lê Thúc Lâm và Lê Thế Vinh (con Thúc Lâm, cũng làm cho triều Minh) đều ở tại thôn Nam An Hà, thuộc thành phố Bắc Kinh (Trung Quốc) ngày nay [1].

II. Thông tin liên quan:
2.1 Vì một câu đối, không được nối ngôi:
Là con trưởng nhưng Hồ Nguyên Trừng không được cha truyền ngôi cho, chỉ vì một câu đối. Chuyện này được sử thần Ngô Sĩ Liên kể lại như sau:

Năm Canh Thìn (1400), mùa xuân, tháng Giêng, Lê Quý Ly (tức Hồ Quý Ly) lập con là Hán Thương làm thái tử, Trước đây, Quý Ly định lập Hán Thương nhưng chưa quyết, mới mượn cái nghiêng đá mà nói rằng (dịch từ chữ Hán): “Hòn đá lạ bằng nắm tạy này, có lúc làm mây làm mưa để nhuần thấm sinh dân”. Bảo con trưởng là Trừng đối lại xem chí hướng ra sau, Trừng đối lại rằng: “Cây thông nhỏ mới ba tấc kia, ngày sau làm rường làm cột để chống nâng xã tắc”. Bấy giờ ý mới quyết định (truyền ngôi cho Hán Thương) [2].

2.2 Mệnh trời là ở lòng dân:
Cuối năm 1405, Hồ Quý Ly cho triệu tập một cuộc hội nghị đặc biệt để bàn kế chống quân Minh. Khi được hỏi, Hồ Nguyên Trừng đã nói rằng:
Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi.

Hồ Quý Ly nghe thế liền ban thưởng cho ông một cái hộp trầu bằng vàng. Đây là câu nói nổi tiếng của ông. Sau, sử thần Ngô Sĩ Liên đã có lời khen rằng: Mệnh trời là ở lòng dân. Câu nói của Trừng hiểu được điều cốt yếu đó. Không thể vì cớ họ Hồ mà bỏ câu nói của Trừng được [3].

2.3 Là nhà văn, nhà kỹ thuật quân sự:
Khi sống cuộc đời lưu vong ở Trung Quốc, Hồ Nguyên Trừng đã soạn ra cuốn Nam Ông mộng lục (Chép lại những giấc mộng của Nam Ông), gồm 31 thiên, nhưng hiện chỉ còn 28 thiên. Đây là tập hồi ký chữ Hán đầu tiên và là tác phẩm đầu tiên mở đường cho khuynh hướng viết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam.

Bên cạnh đó, ông còn là nhà kỹ thuật quân sự tài ba. Theo sử liệu, khi còn ở trong nước, do nhu cầu quân sự, ông đã sáng chế và chỉ đạo chế tác súng thần cơ (hỏa pháo cải tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng)[4] Cho nên sau này ông được vua Minh thu dụng để lo việc chế tạo súng.

Ngoài ra, ông còn là người lo việc đắp những con đê lớn, đào một số kênh và vét lại một số con sông nhằm phục vụ các hoạt động về giao thông, thủy lợi và quân sự. Đặc biệt, những công trình kiến trúc ở thời Mạc, chẳng hạn như thành Tây Đô đồ sộ …đều do ông chỉ huy xây dựng.

III. Giới thiệu sơ lược Nam Ông mộng lục:
Mặc dù phải sống lưu vong ở nước người, Hồ Nguyên Trừng vẫn tưởng vọng về cố quốc, nên tự gọi là Nam Ông (Ông già nước Nam). Bằng hồi ức của mình, tác giả đã viết lại các mẩu chuyện về những con người tài đức ở nước Nam mà mình không còn được nhìn thấy nữa, và ông coi đó như là một giấc mộng, nên đặt cho tên sách là Nam Ông mộng lục.

Tác phẩm gồm 31 thiên, hiện chỉ còn 28 thiên (ba thiên thiếu đều nằm sau thiên 23, đó là: Mệnh thông thi triệu, Thi chí công danh, Tiểu thi lệ cú).
Sách được in lần đầu vào năm 1442 ở Trung Quốc (năm này tương ứng với thời Lê sơ ở Việt Nam), nằm trong Tập IX của bộ Tùng thư Hàm lâu bí kíp.

Trong sách có bài tựa của Hồ Huỳnh (người nhà Minh, làm Thượng thư đồng triều với tác giả), viết năm 1440); thứ đến bài tựa của tác giả đề năm 1438. Cuối sách có bài hận tự của Tống Chương (người Việt Nam, làm quan cho triều Minh), viết năm 1442. Sau cùng là bài bạt của Tôn Dục Tú, viết năm 1440, nói về việc xuất bản sách này.

Nội dung sách ghi chép về các sử thoại và một số chuyện về những nhân vật nước Nam thời Lý - Trần, gồm đủ loại: nhà Nho, thầy thuốc, đạo sĩ, nhà thơ, thầy tu, tướng sĩ, các vua đời Trần, hoặc bà con thân thích với tác giả. Đối với Hồ Nguyên Trừng, đó là những sự kiện và những con người tiêu biểu của nước Nam.

Năm 1999, Nam Ông mộng lục đã được Ưu Đàm và La Sơn cùng dịch, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và chú giải, nhà xuất bản Văn học (Hà Nội) ấn hành.

3.1 Bài Tựa:
Giới thiệu bài Tựa sách Nam Ông mộng lục do chính tác giả viết như sau (bản dịch):
Sách Luận ngữ từng nói: "Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu (tên của Khổng Tử) này vậy", huống hồ nhân vật cõi Nam Giao (chỉ Việt Nam ngày nay) từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói, việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn được ai nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại thành một tập sách đặt tên là Nam Ông mộng lục phòng khi có người đọc tới! Một là để biểu dương các mẫu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng truyện vặt, nhưng cũng là để góp vui những lúc vui chuyện.
Có kẻ hỏi tôi rằng: “Những người ông chép đều là người thiện, vậy thì trong các truyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bất thiện ư?” Tôi trả lời họ rằng: “Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được, còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi”. Họ lại hỏi: “Sách lấy tên là mộng, ý nghĩa ở chỗ nào?” Tôi trả lời: “Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải mộng là gì? Các bậc đại nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn hai tiếng Nam Ông thì chính là tên chữ, của Trừng tôi vậy”!
Ngày Trùng cửu năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống (tức Minh Anh Tông) thứ ba (1438).
Lê Trừng, tên chữ là Mạnh Nguyên, người xứ Nam Giao, giữ chức Chính Nghị đại phu, Tư trị doãn, Công bộ tả thị lang, đề tựa.

3.2 Mục lục:
Sách Nam Ông mộng lục không chia số quyển, trong mục lục có đề 31 thiên mục, nhưng chỉ còn 28 thiên mục như đã nói trên. Sau đây là mục lục của sách:
1.Nghệ vương thủy mạt : Chuyện vua Trần Nghệ Tông.
2.Trúc Lâm thị tịch: Chuyện về sự băng hà của vua Trần Nhân Tông, hiệu Trúc Lâm.
3.Tổ linh định mệnh: Chuyện về linh hồn của ông là vua Trần Nhân Tông quyết truyền ngôi cho cháu là Trần Minh Tông.
4.Đức tất hữu vị: Chuyện vua Trần Minh Tông lên làm vua.
5.Phụ đức trinh minh : Chuyện vợ vua Trần Duệ Tông đi tu.
6.Văn táng khí tuyệt : Chuyện về vua Trần Thái Tông qua đời.
7.Văn Trinh ngạnh trực: Sự cương trực của Chu Văn An.
8.Y thiện dụng tâm: Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng.
9.Dũng lực thần dị : Chuyện Lê Phụng Hiểu dùng sức mạnh lạ thường phá giặc.
10.Phu thê tử tiết: Chuyện hai vợ chồng Ngô Miễn cùng tử tiết dưới áp lực quân nhà Minh, đời Vĩnh Lạc.
11.Tăng đạo thần thông: Chuyện thi tài chống yêu quái giữa Phật tăng Giác Hải và đạo sĩ Thông Huyền.
12.Tấu chương minh nghiệm: Tờ tâu lên thiên đình có ứng nghiệm.
13.Áp lãng chân nhân: Chuyện đạo sĩ họ La (không rõ tên) đem pháp thuật dẹp sóng biển cho vua Lý Thái Tông.
14.Minh Không thần dị: Chuyện thần dị của nhà sư Nguyễn Minh Không.
15.Nhập mộng liệu bệnh: Chuyện nhà sư Quán Viên chữa mắt cho vua Trần Anh Tông trong giấc mộng.
16.Ni sư đức hạnh: Chuyện ni sư tu đắc đạo.
17.Cảm khích đồ hành: Cảm kích mà đi bộ, kể chuyện Trần Đạo Tái (con tướng Trần Quang Khải) hăng hái đi bộ.
18.Điệp tự thi cách: Nói về bài thơ lối điệp tự của vua Trần Thánh Tông.
19.Thi ý thanh tân : Phẩm bình thơ hay của vua Trần Nhân Tông trong tập Đại Hương Hải ấn.
20.Trung trực thiện chung: Chuyện hai anh em Phạm Ngộ, Phạm Mại trung thực mà giữ được trọn vẹn tiết tháo.
21.Thi phúng trung gián: Bài thơ dùng lời trung để can gián (chuyện Trần Nguyên Đán làm thơ can vua Trần Nghệ Tông không được bèn bỏ về).
22.Thi dụng tiền nhân cảnh cứ : Làm thơ lại dùng câu thơ cũ của thi nhân mà khen thi nhân ấy (chuyện Nguyễn Trung Ngạn làm thơ viếng Trần Toại hiệu Sầm Lâu, tác giả Sầm Lâu tập).
23.Thi ngôn tự phụ: Lời thơ khoe khoang của Nguyễn Trung Ngạn.
24.Thi tửu kinh nhân: Chuyện Hồ Tông Thốc uống rượu khỏe, làm thơ nhiều.
25.Thi triệu dư khương: Chuyện Nguyễn Thánh Huấn (ông ngoại Hồ Quý Ly) giỏi thơ.
26.Thi xứng tướng chức : Thơ của hai anh em Trần Nghệ Tông tiễn sứ nhà Nguyên, làm khi chưa lên làm vua.
27.Thi thán chí quân: Kể việc Trần Nguyên Đán làm thơ tự thán để can gián vua.
28.Quí khách tương hoan: Kể việc tướng Mạc Ký, người Đông Triều, làm thơ xướng họa khi đi tiễn sứ nhà Nguyên là Hoàng Thường.

*
Nhận xét về Nam Ông mộng lục, GS. Nguyễn Huệ Chi viết:
Cuốn sách là một tập ghi chép về các mẩu chuyện “người thiện”, “người tài” của đất nước Đại Việt. Những mẩu chuyện này được hồi ức lại như là một giấc mơ về dĩ vãng của Hồ Nguyên Trừng.
Sách được viết, được in và lưu hành ở Trung Quốc nên không khỏi có những hạn chế do những điều kiện chính trị và xã hội ở nơi nó ra đời...Tuy vậy, qua 28 thiên truyện còn lại, ta không hề thấy tác giả có lời nào nhằm biểu dương công ơn “khai hóa” của “thiên triều” đối với người Nam (tức Đại Việt). Trái lại, điều tác giả muốn gửi gắm là: "nước Nam vốn cũng có những con người rất đẹp, tiêu biểu cho đạo đức, phẩm chất và tài năng, có thể đem ra làm gương cho đọc giả phương Bắc (ý chỉ Trung Quốc) cùng soi"...
Xét mặt khác, do chỗ phải dùng trí nhớ để ghi lại, chứ không có tài liệu, nên nhiều truyện khá ngắn ngủi. Tất nhiên hiệu quả cũng bị giảm sút, nhất là nếu đem so sánh chúng với những truyện mang nội dung tương đương trong Lĩnh Nam chích quái (tr. 639-639).

Nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp, viết:
Mặc dù đã thoát nạn chết, lại được làm quan cao, bổng lộc hậu dưới triều Minh; Nguyên Trừng vẫn không quên tổ quốc, tên quyển sách này đủ chứng tỏ lòng quyến luyến quê hương của ông... Sách chép theo lối cũ, tuy đầy tư tưởng phong kiến đời Trần... Nhưng gạt bỏ những hạn chế, ta vẫn có thể khảo sát được nhiều nét về đời sống xã hội của nước Việt lúc bấy giờ (tr. 63-64).

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Theo Minh sử tân hiệu (Academia Sinica, Đài Loan, Quyển 111, Biểu 12, Thất Khanh niên biểu, bảng 3418-3419: Công bộ Thượng thư) và Minh Hiến Tông thực lục (Quyển 66, tờ 4.A, trang 1329. Trung ương nghiên cứu viện, Đài Loan, xuất bản năm 1985).
Suy ra, ông sinh năm 1373 hoặc 1374. Ở Wikipedia tiếng Trung Quốc ghi ông sinh năm 1374, mất năm 1446. Tuy nhiên, nhiều sách ở Việt Nam đều không ghi hoặc ghi là không rõ năm sinh và năm mất của ông. Riêng phần tước phong cuối cùng, theo GS. Nguyễn Huệ Chi thì sau khi ông mất, triều Minh mới cho truy phong hàm Thượng thư bộ Công cho ông (Từ điển văn học, bộ mới, tr. tr. 638).
[2] Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Quyển 8, tờ 36b), tr. 199.
[3] Theo Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Quyển 8, tờ 49 b), tr. 212.
[4] Sử thần Ngô Sĩ Liên đã mô tả loại thuyền này như sau: "Thuyền đinh sắt này có hiệu là Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, chỉ mượn tiếng chở lương thôi, nhưng bên trên có đường sàn đi lại để tiện việc chiến đấu. Bên dưới thì hai người chèo một mái chèo" (Sách ở mục tham khảo, tr. 209).

Sách tham khảo chính:
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Tập 1 và Tập 2 in chung) . Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ " Hồ Nguyên Trừng " trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Trần Thị Băng Thanh (chủ biên), Văn học thế kỷ XVII. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.
-Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại (Tập 1). Nhà xuất bản Giáo dục, 1997.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ “Hồ Nguyên Trừng”. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.
-Trương Hữu Quýnh (Chủ biên)-Phan Đại Doãn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập I). Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.

Không có nhận xét nào: