I. Tác giả:
Vũ Anh Khanh tên thật là Võ
Văn Khanh [1] (1926-1956); là nhà thơ, nhà văn Việt Nam thời kháng Pháp.
Ông sinh tại Mũi Né (trước
thuộc quận Hải Long, nay thuộc thành phố Phan Thiết), tỉnh Bình Thuận.
Không rõ thân thế, chỉ biết
trước năm 1945, ông vào ở Sài Gòn và làm báo, viết văn. Sau ngày Toàn quốc
kháng chiến (19 tháng 12 năm 1946), ông cùng hoạt động với Lý Văn Sâm, Dương Tử
Giang, Thẩm Thệ Hà...trong nhóm văn học yêu nước ở Sài Gòn.
Năm 1950, bị nhà cầm quyền
Sài Gòn lùng bắt, ông và một bạn bè trốn thoát ra chiến khu. Năm 1945, ông tập
kết ra miền Bắc, rồi mất tại Quảng Trị năm 1956, lúc mới 30 tuổi [2].
Vũ Anh Khanh là một cây bút
chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông phần lớn được in trong
năm 1949 tại Sài Gòn, với số lượng phát hành chiếm kỷ lục trong số ấn phẩm thời
đó, gồm:
*Truyện dài:
-Cây ná trắc (Nxb. Tân Việt,
Sài Gòn, 1947)
-Nửa bồ xương khô (2 tập,
Nxb. Tân Việt Nam,
Sài Gòn, 1949)
-Bạc xỉu lìn (Nxb. Tiếng
chuông, Sài Gòn, 1949)
*Tập truyện ngắn:
-Sông máu (Nxb. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)
-Đầm Ô Rô (Nxb. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)
-Bên kia sông (Nxb. Tân Việt Nam, Sài Gòn,
1949, 1949)
-Ngũ Tử Tư (Nxb. Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949)
Ngoài ra, ông còn sáng tác
thơ, nổi bật có bài "Chiến sĩ hành", "Tha La xóm đạo",...
Nhìn chung, các tác phẩm trên
đều là những bức tranh bi thiết nhưng hào hùng của người dân Nam Bộ, trên những
chặn đường lịch sử chống Pháp gay go. Vì vậy, chúng có giá trị tiêu biểu cho
dòng văn chương thời kỳ kháng Pháp ở Nam Bộ. Nhưng, dường như nhiều người chỉ
nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ "Tha La xóm đạo".
II. Bài thơ Tha La xóm đạo:
Vũ Anh Khanh viết bài thơ Tha
La xóm đạo vào năm 1950, sau ngày ông đến thăm Tha La. Đây là một xứ đạo Thiên
Chúa đã có từ lâu đời, nay thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Bài thơ là một câu chuyện kể về xóm đạo Tha La trong thời khói lửa chiến tranh.
Lời thơ dung dị, gần gũi. Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình, đã
lay động tâm hồn của biết bao người. "Tha La xóm đạo" đã được nhạc sĩ
Dũng Chinh, cũng là người Phan Thiết, phổ nhạc vào năm 1964. Sau đó một năm, nhạc
sĩ Sơn Thảo phổ thành bài hát mang tên "Hận Tha La", và cũng trong
năm này nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành ca khúc mang tên "Vĩnh Biệt Tha
La". Ngoài ra, soạn giả cải lương Viễn Châu cũng đã phỏng theo ý tưởng của
Vũ Anh Khanh để viết ca khúc tân cổ giao duyên "Tha La xóm đạo". Dưới
đây là nguyên văn bài thơ:
Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?
Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?
Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".
Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
Ờ... ơ... hơ... Có một đám chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha!
Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu,
Rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
Ờ... ơ... hơ... Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát;
Rung làm lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh hênh, não lòng lắm khách ơi!
Ngày hiu quạnh. Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
Ờ... ơ... hơ... Có một đám chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha!
Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu,
Rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
Ờ... ơ... hơ... Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát;
Rung làm lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh hênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Nguồn tham khảo chính:
-Nguyễn Q. Thắng, mục từ
"Vũ Anh Khanh" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới,
2004.
- Lê Ngọc Trác, "Thi sĩ
Vũ Anh Khanh - Một bài thơ số mãi với đời", trên website Hội Nhà văn Thành
phố Hồ Chí Minh.
Chú thích:
[1] Ghi theo Lê Ngọc Trác.
Nguyễn Q. Thắng (tr. 2017) ghi tên thật của Vũ Anh Khanh là Nguyễn Năm.
[2] Nhà văn Xuân Vũ trong bài
viết “Người chết không mồ”, đăng trên Văn Hóa Việt Nam số 14 năm 2001, cho biết
Vũ Anh Khanh nhân kỳ nghỉ phép, đã sửa thông hành từ Vĩnh Phúc thành Vĩnh Linh,
để vào Quảng Trị vượt biên vào Nam. Ông bơi qua đoạn sông Bến Hải, phía trên
thượng nguồn cầu Hiền Lương chừng vài cây số, thì bị bộ đội biên phòng bờ Bắc bắn
chết bằng tên tẩm thuốc độc để không bị ai phát giác. Xác của người bạc mệnh được
kéo lên vùi dập đâu đó trong khu phi quân sự. Ông Võ Hồng Cương, Cục phó Cục
Tuyên Huấn quân đội nhân dân Việt Nam, cũng kể tương tự [http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/read-poems-on-xmas-eve-12242011131439.html].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét