Nhà quân sự kiệt xuất đời Trần: Trần Hưng Đạo
Tượng đài Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng, Sài Gòn.
Trần Hưng Đạo (1232? - 1300), còn được gọi là Hưng Đạo
Vương, tên thật là Trần Quốc Tuấn; là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, và
là nhà văn Việt Nam
thời Trần.
1. Thân thế:
Cha mẹ Trần Hưng Đạo là An Sinh vương Trần Liễu và một bà
tôn thất nhà Trần tên là Nguyệt. Ông gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột, và
Công chúa Thụy Bà (chị ruột của vua Trần Thái Tông, và là cô ruột Trần Quốc Tuấn)
là mẹ nuôi. Nguyên quán ông ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc
Vượng, thành phố Nam
Định).
Ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người,
và nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy, mà ông sớm trở thành người đọc
thông hiểu rộng, có tài văn võ.
2. Ba lần chống quân Nguyên Mông:
Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không
rõ, chỉ biết vào tháng 9 (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1257), ông giữ quyền “tiết chế”
để chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Sách Đại Việt sử ký toàn
thư chép: "Tháng 9 (1257), (Trần
Thái Tông) xuống chiếu, lệnh (cho) tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn
giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của (Trần) Quốc Tuấn" [tập
2, tr. 77].
Sau khi đánh lui được quân Nguyên Mông lần đầu (1258),
tháng 10 (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai (1285), Trần Hưng
Đạo được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực lượng
quân sự. Tháng 8 (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu
(gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng,
rồi chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu.
Đầu năm 1285, tức 27 năm sau, quân Nguyên Mông lại ào ạt
tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Để bảo toàn lực lượng và thực
hiện kế "thanh dã" (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút
quân. Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định)
đuổi theo vua Trần. vua Trần Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng
không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng".
Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một
tháng chiến đấu quyết liệt với các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,...quân
dân nhà Trần đã đánh tan đội quân Nguyên Mông, giải phóng đất nước.
Cuối năm 1287, nhà Nguyên xâm lược lần thứ ba. Trần Nhân
Tông hỏi: "Năm nay đánh giặc thế nào?". Trần Hưng Đạo đáp: "Năm
nay đánh dễ". Khi đoàn thuyền lương đối phương bị tiêu diệt ở Vân Đồn, chủ
tướng là Thái tử Thoát Hoan phải rút lui, ông bố trí lực lượng mai phục ở cửa
sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của
Ô Mã Nhi vào tháng 4 (âm lịch) năm Mậu Tý (1288). Thoát Hoan nghe tin đội quân
thủy đã vỡ tan rồi, liền dẫn tàn quân tháo chạy về nước, dọc đường bị quân Việt
đón đánh khiến "quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần".
3. Lui về Vạn Kiếp rồi qua đời:
Tháng 4 (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1289), luận công đánh đuổi
quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo được phong tước Hưng Đạo đại vương. Sau đó, ông
lui về ở Vạn Kiếp, là nơi ông được phong ấp (nay thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí
Linh, tỉnh Hải Dương). Nhân dân lúc bấy giờ kính trọng ông, lập đền thờ sống
(sinh từ) ông ở Vạn Kiếp. Tại đền có bài văn bia của vua Trần Thánh Tông, ví
ông với Thượng phụ (tức Khương Tử Nha).
Tháng 6 (âm lịch) năm Canh Tý (1300), ông lâm bệnh, được
vua Trần Anh Tông tới thăm và hỏi về kế sách chống ngăn “giặc phương Bắc”. Chữa
mãi không khỏi bệnh, ông mất ngày 20 tháng 8 năm ấy (5 tháng 9 năm 1300), thọ
khoảng 70 tuổi.
Khi sắp mất, Trần Hưng Đạo dặn các con rằng: "Ta chết
thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi
san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao
cho mau mục" [Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, tr. 78. Xem chú thích 1]. Vì
vậy, cho đến nay, các nhà khảo cổ, các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được mộ
phần của Trần Hưng Đạo ở đâu.
Nghe tin Trần Hưng Đạo mất, triều đình nhà Trần phong tặng
ông là "Thái sư Thượng Phụ Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương". Ông
được nhân dân cả nước tôn vinh là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở
nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là Đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải
Dương). Đây là nơi ông lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ
trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.
4. Tác phẩm:
Tác phẩm của Trần Hưng Đạo hiện còn:
-Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Bài văn hịch hiểu dụ các tỳ tướng,
quen gọi là Hịch tướng sĩ).
-Binh gia diệu lý yếu lược (Tóm lược chỗ cốt yếu trong
nguyên lý kỳ diệu của nhà binh, còn gọi là Binh thư yếu lược)
-Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông
phái Vạn Kiếp) nhưng văn bản đã thất lạc, chỉ còn lại bài Tựa của tướng Trần
Khánh Dư đề ở đầu sách, được Đại Việt sử ký toàn thư (quyển VI) ghi lại.
4. Sử liệu liên quan:
4.1 Vì nước, quên thù nhà:
Năm Đinh Dậu (1237), Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu
(cha Trần Hưng Đạo) phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa (chị của Lý Chiêu
Hoàng) cho em ruột là vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) dù bà này đã có thai với
Trần Liễu được ba tháng, đồng giáng Lý Chiêu Hoàng (đang là Hoàng hậu) xuống
làm Công chúa. Phẫn uất, Trẫn Liễu họp quân làm loạn. Trần Thái Tông chán nản bỏ
đi lên Yên Tử. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người
đánh cá trốn lên thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Thủ Độ biết được,
cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Trần Liễu.
Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết. Mang lòng hậm hực,
Trần Liễu tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo).
Lúc sắp mất, ông cầm tay Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy
được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Quốc
Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Đến khi vận nước lung lay, quyền
quân quyền nước đều do ở mình, Trần Quốc Tuấn đem lời cha trăng trối để dò ý
hai thuộc tướng thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người thuộc hạ ấy can rằng:
"Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay
Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia
nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu"...Trần Quốc Tuấn cảm
phục đến khóc, khen ngợi hai người.
Một hôm Trần Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ vương:
"Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào? Hưng
Vũ vương thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!".
Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm ông đem chuyện ấy hỏi người con thứ
là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ
vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ". Trần
Quốc Tuấn rút gươm kể tội: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà
ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc
xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha. Sau đó, ông dặn Hưng Vũ vương:
"Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng"
[Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 77-78].
Năm Ất Dậu (1285), thế quân Nguyên Mông bức bách, hai vua
Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng
Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (mũi biển thuộc châu Vạn
Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa quân xâm lược. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư kể: "Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, mà Trần
Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương, nên có nhiều
người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi
người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống
gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế" [Đại Việt sử ký
toàn thư (tập 2), tr. 52].
4.2 Không tham chức, biết gạt bỏ hiềm khích riêng:
Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang
Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương bắc đến. Trần Thái
Tông gọi Trần Hưng Đạo tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định
lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".Trần Hưng Đạo thưa: "Việc
tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần
không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ
hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không
làm vui lòng Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh
cũng chưa muộn."
Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải
xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần
Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn,
xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông
và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng
nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại
giữa hai ông ngày càng thêm mặn. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà
vua, hai ông đứng hàng đầu [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 70]
Sử cũ cũng kể rằng bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn (là con
trai của Trần Quốc Tuấn, lại có công đánh giặc) được lấy Công chúa Thiên Thụy,
thế nhưng tướng Trần Khánh Dư lại thông dâm với Thiên Thụy, khiến nhà vua phải
xuống chiếu trách phạt và đuổi Khánh Dư về Chí Linh vì "sợ phật ý Quốc Tuấn".
Vậy mà khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã
gạt bỏ hiềm riêng, tin cậy "giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân
Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư" khi ông này được phục chức. Ngoài ra,
khi soạn xong Vạn Kiếp tông bí truyền thư, thì Trần Khánh Dư cũng là người được
ông chọn để viết bài Tựa cho sách [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 46, 58
và 82.].
4.3 Khéo tiến cử người tài giỏi, kính cẩn giữ tiết làm
tôi:
Miếu thờ Hưng Đạo Vương tại thành phố Hồ Chí MinhTrần
Hưng Đạo khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là
gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như
Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường,
Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương
và chính sự.
Vì có công lao lớn nên nhà vua gia phong ông là Thượng quốc
công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống,
chỉ có tước hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ
phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước Việt, ông lệnh
cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả
chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi...[Đại Việt
sử ký toàn thư (tập 2), tr. 78-79]
4.4 Bị chọc vào đầu đến chảy máu, sắc mặt vẫn không thay
đổi:
Đầu năm Tân Tỵ (1281), vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt lại
sai Sài Xuân đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký
toàn thư chép: "Sài Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương
Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu...Vua
(Trần Nhân Tông) sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh
không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo
Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc
Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng
dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải
là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người
hầu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc
mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn
ông"...[Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2) tr. 44]
4.5 Lời tâm huyết trước khi mất:
Tháng 6 (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi
rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế
sách như thế nào?". Ông trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà)
dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà
trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản
binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người
tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới
một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là
một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt
đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt
bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt.
Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh.
Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó
kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không
cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ
vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được.
Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước
vậy" [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2) tr. 76-77].
5. Vợ, con:
Trần Hưng Đạo cưới Công chúa Thiên Thành làm vợ. Bà là
con gái út của Trần Thừa, tức cũng là cô ruột của Trần Hưng Đạo [2]. Sau, bà được
phong tước là Nguyên Từ quốc mẫu, và mất vào tháng 9 (âm lịch) năm Mậu Tý
(1288). Bà sinh hạ cả tất cả 5 người con, gồm 1 gái và 4 trai:
-Một gái đầu lòng tên là Trinh, thường gọi là Trinh Công
chúa, sau trở thành vợ của vua Trần Nhân Tông, tức Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu,
rồi sinh ra con là vua Trần Anh Tông sau này.
Bốn trai (không rõ thứ bậc), đều là võ tướng có tài, từng
theo cha đánh đuổi quân Nguyên Mông, đó là:
-Trần Quốc Nghiễn, tước Hưng Vũ vương: Ông cưới Công chúa
Thiên Thụy, trở thành Phò mã của vua Trần Thánh Tông. Sau khi đánh đuổi quân
Nguyên Mông, tháng 4 (âm lịch) năm 1289, ông được phong làm Khai Quốc công.
-Trần Quốc Hiện, tước Hưng Trí vương: Khi xét công đánh
đuổi, ông không được thăng trật, vì “đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các
tướng không được cản trở, mà lại còn đón đánh chúng”. Ông cũng là người có công
tổ chức khẩn hoang nhiều vùng đất hoang vu của khu vực tỉnh Hải Dương ngày nay.
-Trần Quốc Tảng, tước Hưng Nhượng vương: Khi xét công,
ông được phong làm Tiết độ sứ. Ông có con gái gả cho vua Trần Anh Tông, tức Thuận
Thánh Hoàng hậu..
-Trần Quốc Uất, tước Minh Hiến vương: Chưa có thông tin,
chỉ biết vào cuối năm 1284, ông cùng với các anh em "đốc suất 20 vạn quân
các xứ đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của cha". Tuy nhiên, sách
Đại Việt sử ký toàn thư không nhắc đến tên ông khi xét công đánh đuổi quân xâm
lược.
Ngoài ra, Trần Hưng Đạo còn có một người con gái nuôi, đó
là Nguyên Công chúa, sau là vợ của danh tướng Phạm Ngũ Lão [3].
*
Dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, quân đội nhà Trần đã
vượt qua vô vàn khó khăn và hiểm nguy, ba lần đánh tan hàng vạn quân Nguyên
Mông xâm lược, giành thắng lợi lẫy lừng, “tiếng vang đến phương Bắc, khiến
chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên”. Công
lao to lớn này đã đưa ông lên hàng “thiên tài quân sự có tầm chiến lược, và là
một anh hùng dân tộc bậc nhất của nhà Trần”.
Là một Tiết chế đầy tài năng, khi "dụng binh biết đợi
thời, biết thừa thế tiến thoái", đặc biệt là có một có một lòng tin sắt đá
vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên Trần Hưng Đạo đã đề ra một
đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến lược khỏi
kinh thành Thăng Long, để bảo toàn lực lượng. Kế hoạch "thanh dã" (vườn
không nhà trống) và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa “hương binh” và
quân triều đình, những trận tập kích và phục kích có ý nghĩa quyết định đối cả
chiến dịch như ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn, và nhất là ở Bạch Đằng...đã
làm cho tên tuổi ông bất tử.
Có thể nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo,
là một tấm lòng tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong
dân tộc thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu thương dân. Cho nên
trước khi mất, ông vẫn còn dặn vua Trần Anh Tông rằng: "Phải nới sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc" cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà [theo GS. Nguyễn
Huệ Chi].
Vì thế, các cây đại bút thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm
Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu, v.v...đều có những sáng tác viết về Trần
Hưng Đạo. Các nhà khoa bảng sau đó, như Đặng Minh Khiêm (thời Lê), Cao Bá Quát
(thời Nguyễn),v.v...cũng thường dành cho ông những lời đặc biệt kính trọng. Dưới
đây giới thiệu hai bài:
Đặng Minh Khiêm (? -1585) viết:
Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung,
Mậu kiến Trùng Hưng đệ nhất công.
Một hậu uy do tồi Bắc lỗ,
Ỷ thiên trường kiến da minh phong.
Dịch nghĩa:
Sinh vào lúc gia đình
có sự hiềm khích nhưng vẫn thề giữ đức trung thành,
Giúp nên cơ nghiệp
Trùng Hưng công lao hàng bậc nhất.
Dẫu đã mất mà uy
phong còn bẻ gãy giặc Bắc.
Thanh kiếm dài tựa
ngoài trời thuở xưa, đêm đêm thường rít lên như gió.
Cao Bá Quát (1809-1855) viết:
Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào,
Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao.
Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ,
Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao.
Công mãn Nam
thiên thùy trúc bạch,
Uy dư Đông Hải thiếp ba đào.
Phần Dương khánh diễn hồn dư sự,
Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao.
Dịch nghĩa:
Là đấng anh hào bậc
nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên,
Dấn mình vì nước chẳng
nề khó nhọc.
Nâng đỡ xe mặt trời
lòng những hăng hái,
Quét sạch bụi ngoài
cõi, mưu lược thật cao siêu.
Công cao đầy cả trời
Nam, lưu truyền sử sách,
Uy linh khắp biển
Đông, sóng cả yên lặng.
Ân trạch ở Phần Dương
có sánh cũng bằng thừa.
Mãi khiến giặc Hồ phải
biết tay tài giỏi .
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1]Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2, tr. 21). Triều Trần có lệ cho người
trong họ lấy nhau nên mới có cuộc hôn nhân lạ lùng này (ý kiến của GS. Nguyễn
Khắc Thuần, tr. 98).
[2] Tên và tước phong các người con của Hưng Đạo Vương
chép theo Đại Việt sử ký toàn thư (tr. 49). Danh tướng Việt Nam (tập 1, tr.
98-99) chép khác.
Sách tham khảo chính:
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch, tập 2).
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1985.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt,
Sài Gòn, 1968.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ “Trần Quốc Tuấn” trong Từ điển
văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Nguyển Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam (tập 1). Nhà xuất
bản Giáo dục, 2006.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển.
Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn, 1966.
-Mục từ "Trần Hưng Đạo" trong Từ điển bách khoa
Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét