Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012


Đồng Tập Trận



Bản đồ giúp hình dung vùng đất Đồng Tập Trận

Đồng Tập Trận là một cánh đồng nổi tiếng, gồm hàng ngàn hecta, xem trên bản đồ ngày nay, thì vùng đất ấy thuộc quận 10 và quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam), song đã biến mất từ lâu trong quá trình đô thị hóa.




Ở nửa đầu thế kỷ 19, trên cánh đồng rộng lớn này từng là nơi luyện tập, diễu binh của quân đội nhà Nguyễn (nên có tên là "Đồng Tập Trận"), rồi trở thành một “nghĩa địa bao la” sau đó, nên còn được gọi là Đồng Mả Mồ.

Vị trí

Vị trí Đồng Tập Trận đã được học giả Vương Hồng Sển chỉ ra trong các trang sách sau:
-"Khỏi chợ Cây Da Thằng Mọi[1], có một cánh đồng rộng lớn trống trải và cây cỏ mọc tùm lum nhiều chỗ. Ngày nay nhà cửa cất lấp bít bùng không còn nhìn được nơi nào, chớ xưa kia đây là “Đồng Tập Trận”, cũng gọi là Mả Ngụy” hay “Mả Biền Tru”.

-"...Vui vì xe chạy một đỗi, thấy di tích Đồng Tập Trận mênh mông (nay là đại lộ Lý Thái Tổ). Sách nói khi xưa, làm con đường này gặp nhiều mả mồ (ắt chốn Đồng Tập Trận cũ)...”
- "...Đồng Tập Trận cũng gọi là Mô súng, sau này mới gọi là Mả Ngụy" [2].

Trích thêm lời kể của tác giả Nguyên Thanh:
-"Khu Ngã Bảy xưa kia mang tên Đồng Tập Trận, cũng gọi là Mô Súng. Cho đến những năm 30, nơi đây hãy còn là một cánh đồng hoang vu với nhiều cây cối um tùm, những ngôi mộ lớn nhỏ chen chúc nhau từ bao thế hệ".
-"Nằm giữa các đường 3 tháng 2, Lê Đại Hành, Lữ Gia và Lý Thường Kiệt là khu Trường đua Phú Thọ, ...trước kia là một phần của một vùng đất hoang vắng phía Tây Bắc thành phố, gọi là Đồng Tập Trận. Đây là một vùng rất khó kiểm soát và gây nhiều khó khăn cho công việc bảo vệ thành phố [3].

Nối kết các lời kể ấy, cùng với lời kể của Raoul Postel (giới thiệu bên dưới), có thể hình dung rằng đây là một cánh đồng rộng lớn, bắt đầu ở khoảng khu vực Ngã Sáu Công trường Dân Chủ, trải dài theo đại lộ 3 tháng 2 và đường Điện Biên Phủ, khu vực Ngã Bảy (nơi có đường Lý Thái Tổ chạy qua) cho đến tận khu Trường đua Phú Thọ. Đối chiếu với bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, thì cánh đồng này thuộc quận 10 (phần lớn) và quận 3 ngày nay.

Tên gọi

Cũng theo học giả họ Vương, thì ngoài cái tên "Đồng Tập Trận", vùng đất này còn được gọi là Mô Súng, là Mả Ngụy (hay Mả Biền Tru).

Gọi là "Mô súng" vì nơi đây có các mô đất cao đặt các khẩu súng đại bác để phục vụ cho công tác huấn luyện của quân đội nhà Nguyễn (xem lời kể của học giả Trương Vĩnh Ký ở bên dưới). Theo nhà Nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thì vị trí các "mô súng ở gần Mả ngụy", tức ở khu vực Ngã Sáu (Công trường Dân Chủ) ngày nay [4].

Gọi là "Mả Ngụy" (hay "Mả Biền Tru") vì nơi đây có một ngôi mộ chung chứa 1.831 xác người gồm "già trẻ trai gái”ngay sau khi cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi bị quân đội nhà Nguyễn đánh dẹp vào tháng 7 năm Ất Mùi (1835).

Ngoài ra, cánh đồng này còn được người Pháp là Đồng Mả Mồ (Plaine des Tombeaux). Rất có thể sau khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định (1859), quân đội nhà Nguyễn rút đi, không còn ai đến đây thao dượt nữa, nên vùng đất này dần bị hoang hóa và dần bị các ngôi mộ lấn chiếm. Điều này khá phù hợp với lời kể của Vương Hồng Sển, Nguyên Thanh (vừa dẫn), và lời kể của một tác giả người Pháp tên là Raoul Postel.

Trong thời Pháp thuộc, sau khi đến Sài Gòn, Raoul Postel đã mô tả lại cánh Đồng Mả Mồ trong tác phẩm L’ extrême-Orirenh, Cochinchine, Annam Tonkin. Dưới đây là một đoạn văn (dịch từ tiếng Pháp) trích trong tác phẩm ấy:
"Chẳng có ai đến Sài Gòn chỉ trong một ngày mà lại không nghe nói đến ít nhất về cái nghĩa địa bao la này được gọi dưới cái tên là Đồng Mả Mồ. Đồng này trải dài bên phải của con đường chiến lược (rue strategique, nay là đại lộ 3 tháng 2), từ Sài Gòn đến Chợ Lớn và bị cắt ngang qua đoạn giữa của nó bởi đường Thuận Kiều (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), trong chiều ngược lại các chiến tuyến Kỳ Hòa (Chí Hòa), như thể tạo thành một diện tích rộng nhiều dặm vuông. Những tháp trụ nhỏ góc vuông hay lục giác, những ngôi chùa thu nhỏ với cửa hình vòng cung và rồng bằng đá, những núm đất có bốn góc, một vùng đất khô cằn, bụi bặm, chỉ lỏng khỏng và họa hoằn vài chòm cây cằn cỗi, đó là bộ mặt của cánh đồng nổi tiếng này. Quang cảnh này tuy nhiên đặc biệt kích thích sau khi đã ngắm cây cối sum suê của kinh Tàu Hủ, cây cối um tùm như rừng và các khu vườn đầy bóng mát của thành phố, người ta đột ngột bị đưa đến giữa vô số mồ mả, cái nghĩa trang của những ngày qua chôn vùi tham vọng của những nhân vật quan trọng, khoái lạc của những kẻ giàu có, sự bần cùng của kẻ âm thầm"...[5]

Liên quan với lịch sử
Học giả Trương Vĩnh Ký trong “Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs”, kể:
"Hàng năm, sau Tết, Lê Văn Duyệt (gọi là Ông lớn thượng) tổ chức diễn tập lính từ 6 tỉnh Nam Kỳ[6] ở cánh đồng mả (plain de tombeaux), tức "đồng tập trận" ở phía đất giữa Sài Gòn và hướng trường đua, Phú Lâm.
"Vào đêm trước ngày 16 tháng một năm mới, vị tổng trấn cùng đoàn tùy tùng đến bái (homage) vua trong đền thờ của ông, sau đó sau ba phát súng cà nông, ông lên kiệu giữa hàng đầu lính mở đường và hàng lính hộ tống phía sau ra khỏi thành, ngang qua cửa Gia Định môn, và cửa Phan yên môn, đi đến cạnh Chợ Vải (gần cửa rạch kế chợ Cũ), sau đó đi lên đường sau này gọi là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để lên các gò cao gọi là mô súng. Ở đó, là nơi các khẩu đại bác được bắn và trình diễn quân sự được tiến hành với các voi. Tổng trấn sau đó đi vòng sau thành và đến xưởng tàu thủy quân xem tập trận rồi trở về thành. Trong khi diễn hành, dân chúng trong nhà đánh âm thanh lớn, đốt pháo để đuổi đi ma quỷ có thể ám nhà họ"...[7]

■Ngay sau khi đánh hạ được thành Phiên An (tháng 7 năm Ất Mùi, 1835), vua Minh Mạng đã ra lệnh hạ sát "già trẻ trai gái, cộng chung là 1.831 người" có liên quan đến cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, rồi vùi thây trên cánh đồng này. Vị trí nấm mộ đó, tuy ý kiến của các nghiên cứu vẫn còn có chút khác biệt, nhưng tựu chung cũng chỉ quanh quẩn ở khu vực Ngã Sáu Công trường Dân Chủ.

■Sau khi cuộc khởi nghĩa nổ ra tại Sài Gòn vào tháng 2 năm 1916 thất bại, cũng chính tại Đồng Tập Trận, Phan Xích Long và 56 đồng đội đã bị quân Pháp xử bắn.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn

Chú thích
1.^ Theo Huỳnh Minh (Gia Định xưa, Nxb VH-TT, 2006, tr. 88) thì Chợ Cây Da thằng Mọi tức là chợ Điều Khiển. Theo Nguyễn Đình Đầu thì "khu chợ này nằm trên đường Nam Quốc Cang thuộc phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay" (Địa chí văn hóa TP. HCM, tập 1, 1987, tr.164).

2.^ Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa (tr. 83, 148, 154).

3.^ Nguyên Thanh, Thành phố bất khuất. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1984, tr. 43 và 186.

4.^ Nguyễn Đình Đầu, ''Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh'' (tập 1), 1987, tr. 211.

5^. Các chữ trong ngoặc là của người soạn. Đoạn văn này được trích trong Sài Gòn - Gia Định qua thơ văn do nhóm tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Khuê và Trần Khuê biên soạn. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 435.

6^. Chú thích của Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xưa, tr. 83): “Nói làm vầy cho gọn, chớ kỳ thật từ “Nam Kỳ Lục Tỉnh” chỉ có từ năm 1834 (Minh Mạng thứ 13)”.

7.^ Kể theo Trương Vĩnh Ký (http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Kien-thuc-lich-su---van-hoa/2010/10/3A921BE6/) . Thông tin thêm: Năm 1971, Chính phủ Hoàng gia Anh có tặng cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa một vở tuồng có tên là “Lê Ngụy Khôi truyện”. Tuồng dài 209 trang, chữ Nôm, viết tay, không rõ tác giả và thời điểm sáng tác; hiện đang lưu trữ tại Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (mang số 17). Trong tuồng có đoạn diễn cảnh tập trận oai nghiêm lẫm liệt nơi Đồng tập Trận, với đủ các loại thi đấu, như đấu voi, đấu ngựa, và đấu côn quyền… Đồng thời, nó còn diễn tả lại cảnh sinh náo nhiệt của cư dân Sài Gòn dưới thời Tả quân Lê Văn Duyệt. Xem đoạn trích trong sách Sài Gòn - Gia Định qua thơ văn', tr. 281-287.









Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

Tả dinh Lê Văn Phong

Lê Văn Phong (1769 - 1824) là tướng của chúa Nguyễn - Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.


Thân thế
Khoảng năm 1760, ông Lê Văn Toại rời làng Bồ Đề ở Quảng Ngãi, theo đường biển vào cư ngụ tại vàm Trà Lọt, thuộc làng Hòa Khánh, tổng An Hòa, tỉnh Định Tường. Tại ông, vợ chồng ông sinh ra người con đầu là Lê Văn Duyệt. Năm 1764 ở vàm Trà Lọt xảy ra dịch bệnh thiên thời, nên sau đó gia đình ông Toại phải dời sang ấp Thạnh Hòa, làng Long Hưng, thuộc Mỹ Tho sinh sống. Tại đây, ông bà lần lượt có thêm các người con là: Lê Văn Oai, Lê Văn Phong, Lê Văn Đến và hai người con gái là Lê Thị Năm, Lê Thị Hổ.

Theo sử liệu, trong một đêm mưa to gió lớn năm 1781, trên đường trốn chạy sự truy đuổi của quân Tây Sơn, thuyền của chúa Nguyễn Phúc Ánh (về sau là vua Gia Long) bị chìm gần vàm Trà Lọt. Gia đình ông Toại phát hiện chèo xuồng ra cứu thoát và đưa về nhà tá túc. Thưởng công cứu giá, Nguyễn Phúc Ánh nhận con trai trưởng của ông Toại và bà Nguyễn Thị Lập là Lê Văn Duyệt (17 tuổi) vào quân ngũ, sau phong chức Cai cơ coi sóc nội binh. Ít lâu sau, Lê Văn Phong cũng được nhận vào quân ngũ để cùng anh khôi phục cơ nghiệp cho chúa Nguyễn [1].

Sử liệu chép về ông không nhiều, chỉ biết khi vua tôi nhà Tây Sơn bỏ chạy, vua Gia Long vào thành Thăng Long (Nhâm Tuất, 1802), thì ông đang giữ chức Đô thống chế. Liền sau đó, ông nhận lệnh dẫn quân lên Lạng Sơn, buộc hai viên tướng Tây Sơn là Trấn thủ Hoàng Văn Kim và Hiệp trấn Trương Văn Luyện phải mở cửa thành ra hàng [2]

Đến tháng 10 (âm lịch) năm Canh Ngọ (1810), Lê Văn Phong lại được vua sai đem quân đi tuần phòng ngoài bờ cõi [3].

Khoảng năm Mậu Dần (1818), Lê Văn Phong được cử ra Bắc giữ chức Phó Tổng trấn Bắc Thành, dưới quyền của Tổng trấn Tổng trấn. Cho nên lúc bấy giờ có câu tán tụng:
Huynh Nam, đệ Bắc oai danh chấn.
Tử hiếu, thần trung tiết nghĩa cao.
Nghĩa là:
Anh trấn trong Nam, em trấn ngoài Bắc, lừng lẫy uy danh
Con tròn đạo hiếu, tôi vẹn lòng trung, nêu cao tiết nghĩa.

Năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824), Lê Văn Phong về thăm quê, trở bệnh rồi qua đời ở tuổi 55 tại Gia Định ngày 15 tháng 9 âm lịch. Sử nhà Nguyễn chép: "Em Duyệt là Văn Phong, có võ công, mất vào năm Minh Mạng thứ 5, tặng Thiếu bảo, thụy là tráng Nghị" [3].

Sinh thời, Lê Văn Phong từng lãnh chức Chưởng Tả dinh, nên còn được người đời gọi là “Ông Tả Dinh”.

Vợ con
Theo gia phả của Tổ quán họ Lê Văn ở làng Bồ Đề (Mộ Đức, Quảng Ngãi) thì Lê Văn Phong có hai người vợ chính và nhiều bà vợ lẽ. Số con ông ghi trong gia phả là 27 nam, 4 nữ...Năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long cho người con đầu của ông là Lê Văn Yến được làm “con thừa tự” của Lê Văn Duyệt, vì em ông là người bị hoạn bẩm sinh. Sau, Lê Văn Yến được vua Gia Long gả con gái thứ mười là công chúa Ngọc Ngôn (có sách ghi là Ngọc Nghiên hay Ngọc Nghiêm), và trở thành Phò mã đô úy.

Tháng 7 (âm lịch) năm Ất Mùi (1835), cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (con nuôi Lê Văn Duyệt) bị đánh dẹp. Sau đó, phần lớn con cháu họ tộc Lê Văn đều bị đày đi làm lao dịch, chỉ riêng Phò mã Lê Văn Yến và Lê Văn Tề (đều là con ruột Lê Văn Phong) bị án trảm. Mãi đến năm Tự Đức nguyên niên (1848), sau khi nghe lời tâu của Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn, nhà vua mới ban cho Lê Văn Diễn (con của Phò mã Lê Văn Yến) chức cai đội.

Tuy nhiên, đang khi xảy ra họa lớn, một trong số người con của Lê Văn Phong là Lê Văn Dược đã trốn thoát lên vùng rừng hoang phía bắc Gia Định, mai danh ẩn tích và đổi sang họ Nguyễn. Tại đậy, ông cùng các con khai khẩn đất hoang, lập làng, và trở thành “tiền hiền” của vùng đất Thái Mỹ thuộc huyện Củ Chi ngày nay.

Lăng mộ
Lăng mộ Tả dinh Lê Văn Phong khi xưa tọa lạc tại thôn Tân Sơn Nhứt, tổng Dương Hòa Thượng, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, và do đích thân Tả quân Lê Văn Duyệt đứng ra chỉ huy việc xây dựng.

Trong sách Sài Gòn năm xưa, học giả Vương Hồng Sển viết:
“Lăng Lê Văn Phong, sinh tiền tặng “Ông Tả Dinh”, là em của Lê Tả quân. Mất trước Tả quân, nên mộ phần kiên cố hùng vĩ, bởi do Tả quân đứng trông nom xây cất. Chúng tôi mới tìm được trước ở trong hoa viên nhà ông quản lý Đông Pháp ngân hàng, sau vì đổi chủ nên mất tích. Bây giờ lọt vào đất quân sự, muốn vào phải xin phép. Trước ở về phía hữu đường Mac Mahon nối dài. Nay ở về phía hữu đường Ngô Đình Khôi, khuất trong xa, phải cố tìm mới ra mối [4].

Trong bài viết “Đồ sành cũ đất Nam Kỳ và giặc Lê Văn Khôi”, Vương Hồng Sển lại cho biết thêm như sau:
"Mộ Lê Văn Phong, do Tả quân đứng xem xây cất, trước đây ở trên sở đất trồng cao su của ông P. Gannay trên Tân Sơn Nhất. Mộ mấy năm trước còn đồ sộ, tưởng được để dành làm cổ mộ cho xứ Sài Gòn đã rất hiếm kỳ quan cổ tích. Không ngờ vì nhu cầu công ích, bộ Tổng hành dinh phải phá, dời đi chỗ khác, những gì đào được trong mả, như đại ngọc, mão nạm vàng, kiếng gọng đồi mồi theo kiểu quan võ Lang sa đời 19, đều gởi vào Viện bảo tàng trong vườn Bách thảo cho công chúng xem [5].

Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh trong sách Gia Định Xưa (xuất bản trước năm 1975), cũng đã ghi rằng: "Lăng Tả dinh Lê Văn Phong, tọa lạc tại phía hữu đại lộ Cách Mạng, trong phạm vi xã Tân Sơn Hòa""' [6].

Năm 1961, vì nhu cầu quân sự, người ta đã cho bốc mộ ông. Người chứng kiến vụ việc này kể lại đại ý như sau: "Lăng mộ hư hại nhiều và nằm cạnh văn phòng của tướng Đặng Văn Quang. Cần phá khu lăng và bốc mộ để mở rộng sân chào cờ và làm nơi đáp máy bay trực thăng. Lúc bốc mộ, cơ giới trục lên một cỗ quan tài lớn với nắp tròn cao như mâm xôi, hai đầu dưới nhỏ, đoạn giữa có cái Minh Tinh, gọi là “Tam gia triều nhũ” còn mới nguyên dù đã chôn cất hàng trăm năm. Ngoài di hài với trang phục triều đình, còn những di vật chôn theo như mão, áo, bao đai thắt lưng và cả đôi hia quan võ của ngài. Những di vật đó đã đem nhập vào Viện bảo tàng, nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh). Còn di hài, nghe nói đưa về phía bên trái, cách khu lăng mộ cũ vài cây số" [7].

Tháng 4 năm 2011, Ban Quý tế Lăng Ông Bà Chiểu đã tìm ra ngôi mộ cải táng của Lê Văn Phong, ở phía sau vách khu mộ Hoài Quốc công Võ Tánh, nằm trong khu đất quân sự của Quân khu 7 (số 17 đường Hồ Văn Huê, phường 9, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh). Ngôi mộ xây bằng gạch và xi măng, và lúc này "đang nứt nẻ nằm trong miếng đất nhỏ bé, rác tràn ngập". Trên bia mộ có dòng chữ Việt: "Việt Nam Đại thần Lê Văn Phong chi mộ. Cải táng ngày 27 tháng 10 Tân Sửu (tức 4 tháng 12 năm 1961)". Ở bình phong có gắn tấm bia đá hoa cương xám ghi là: “Từ trần tháng 9 năm Giáp Thân 1824 Minh Mạng thứ 5. Linh vị, tiểu sử thờ tại Hưng Quốc Tự”.

Trước hiện trạng vừa kể, vào đúng ngày tiết Thanh minh năm Nhâm Thìn (19 tháng 3 âm lịch, nhằm ngày 9 tháng 4 năm 2012), các con cháu họ tộc Lê Văn từ Thái Mỹ (Củ Chi), Tây Ninh, Quảng Ngãi, Huế...đã hội tụ về và tổ chức lễ rước di cốt Tả dinh Lê Văn Phong về ấp Tháp, thuộc xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây là Tổ quán của họ tộc Lê Văn ở Củ Chi, tức nhánh của cụ tổ Lê Văn Dược.


Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Chú thích
1.^ Trong các người em của Lê Văn Duyệt duy chỉ có Lê Văn Phong là theo phò chúa Nguyễn.
2.^ Ngô Giáp Đậu, Hoàng Việt long hưng chí, Nxb Văn học, 1993, tr. 351.
3.^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu (Nxb Văn học, 2002, tr. 83). Trong sách không ghi rõ là tuần phòng ở đâu. Tuy nhiên căn cứ vào câu liền kề ở đoạn trước thì có thể đấy là ở biên giới phía Nam. Câu ấy như sau: “Vì lúc ấy Chân Lạp cùng Xiêm hiềm khích với nhau, Gia Định gần Nam Vang, phải đề phòng trước”.
4.^ Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr. 190.
5.^ Vương Hồng Sển, "Đồ sành cũ đất Nam Kỳ và giặc Lê Văn Khôi" (sách đã dẫn, tr. 207). Thông tin liên quan: Đường Macmahon thời Pháp, sau lần lượt là: đường Ngô Đình Khôi, Đại lộ Cách Mạng, và Nguyễn Văn Trỗi ngày nay.
6.^ Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Văn hóa - Thông tin tái bản năm 2006, tr. 65.
7.^ Theo bài viết "Ngôi mộ thất lạc gần 200 năm" của Diệp Hồng Phương đăng trên báo Thanh Niên  (http://www.thanhnien.com.vn/pages/20110820/nhung-ngoi-mo-co-dong-ho-le-van-duyet-ky-2-ngoi-mo-that-lac-gan-200-nam.aspx) .






Danh thần triều Nguyễn: Đặng Đức Siêu

Đặng Đức Siêu (1751 – 1810) là danh thần, danh sĩ dưới thời chúa Nguyễn – Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.


Ông sinh năm Tân Mùi (1751) tại làng Phụng Cang, huyện Bồng Sơn; nay là ấp Vĩnh Phụng, xã Hoài Xuân, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

Năm 16 tuổi, ông đỗ Hương tiến (Cử nhân), được Định vương Nguyễn Phúc Thuần bổ làm việc ở Viện Hàn lâm tại Phú Xuân. Sau, khi vị chúa này chạy vào Nam, ông về ở ẩn. Nghe tiếng ông, lần lượt chúa Trịnh và triều Tây Sơn đều có sai người vời ông ra làm quan, nhưng ông đều từ chối.

Tháng 10 (âm lịch) năm Mậu Ngọ (1798), ông nhận lời vào Gia Định giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh khôi phục nghiệp nhà. Sách Quốc triều sử toát yếu chép:

..."Ông Siêu văn học uyên súc, nhơn loạn ở ẩn. Tây Sơn đòi không đến. Ngài (chỉ Nguyễn Phúc Ánh) nghĩ Siêu là cựu thần, mật sai đòi, đến bây giờ lén vào Gia Định, bày mưu chước đánh Tây Sơn. Ngài khen, liền phong chức Trung quân Tham mưu"...[1].

Kể từ đó, ông thường bàn bạc việc quân với chúa Nguyễn và các tướng. Theo lời kể của Ngô Giáp Đậu, thì chính ông là người bày kế đánh “hỏa công”, khiến cho lực lượng binh thuyền của quân Tây Sơn bị cháy rụi tại đầm Thị Nại vào đầu năm Tân Dậu (1801)[2].

Năm Nhâm Tuất (1802), nhà Tây Sơn sụp đổ, chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Kể từ đó, phần lớn nghi lễ, chiếu biểu của nhà vua đều do ông soạn thảo. Về sau, ông được cử làm Phụ đạo (dạy các Hoàng tử), dần trải đến chức Thượng thư bộ Lễ (tháng 11 âm lịch năm Kỷ Tỵ, 1809).

Năm Quý Hợi (1803), ông theo vua Gia Long ra Bắc, khi đến Thanh Hóa, ông nhận lệnh yết cáo Nguyên miếu (miếu thờ Triệu Tổ Nguyễn Kim).

Gia Long thứ 8 (Canh Ngọ, 1810), Đặng Đức Siêu mất vì bệnh, thọ 59 tuổi, được truy tặng chức Tham chính.

Năm Ất Dậu (1825), vua Minh Mạng truy tặng ông là Thiếu sư, Hiệp biện đại học sĩ và lập đàn tế ông. Dưới triều Tự Đức, Nhâm Tý (1852), ông được liệt thờ vào miếu Trung hưng công thần.

Là một danh thần, Đặng Đức Siêu còn là một nhà văn khá có tiếng đương thời. Tác phẩm của ông có:

■Tự tỉ quản nhạc.
■Thiên Nam thế hệ: chép việc từ đời Triệu tổ Nguyễn Kim đến đời Định vương Nguyễn Phúc Thuần.
■Thượng sơn tứ hiệu.
■Hồi loan khải ca: gồm 9 khúc ca vịnh, tán dương công đức của vua Gia Long trpng công cuộc bình định giang sơn.
■Tô Vũ tiết, Trương Lương trùy.

Ngoài ra, nhiều điển lệ trong triều đều do ông soạn định. Các bài văn tế viết cho Bá Đa Lộc, Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đều do ông thảo.

Về gia đình, Đặng Đức Siêu có bà vợ chính thất là Nguyễn Thị Ngữ (? - ?), người huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Theo Từ điển nhân vật Việt Nam, [3] bà được đứng vào hàng “liệt nữ”. Người ta kể rằng khi chồng vào Gia Định phò chúa Nguyễn, bà ở nhà thủ tiết nuôi con. Thấy bà đẹp người, đẹp nết, Tư đồ nhà Tây Sơn là Võ Văn Dũng muốn cưới bà làm vợ [4], nhưng bà nhất định khước từ. Năm 1810, chồng bị bệnh mất, bà vẫn ở vậy cho đến hết đời. Đời Minh Mạng, triều đình ban cho bà tấm biển "Tiết phụ" có khắc 4 chữ Hán: “Đông quản phương tiêu”.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Chú thích:

1.^ Quốc triều sử toát yếu (Nxb Văn học, 2002, tr. 56). Một vài tác giả cho rằng lúc này “ông được cử giữ việc từ lệnh, đặt điển lễ và triều nghi” là không đúng.
2.^ Ngô Giáp Đậu, Hoàng Việt long hưng chí (Nxb Văn học, 1993, tr. 262).
3. Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1992, tr. 132.
4.^ Theo lời kể trong sách Việt Nam Danh Nhân Tự điển của Nguyễn Huyền Anh. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng.