Lê Giốc hay Lê Giác [1] (? - ?), là người ở làng Kẻ Rỵ, thuộc huyện Đông Sơn; nay là làng Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Ông là con Lê Quát (? - ?), thi đỗ Thái học sinh, làm quan trải đến chức Thượng thư Hữu bật nhập nội hành khiển (tương đương chức Thủ tướng ngày nay).
Làm quan trong thời loạn
Thời vua Trần Nghệ Tông, Lê Giốc làm Tuyên phủ sứ Nghệ An. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 1371 đời vua này, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đã mang quân ra cướp phá kinh thành Thăng Long theo lời cầu cứu của mẹ Dương Nhật Lễ. Vua Nghệ Tông không chống nổi, phải bỏ chạy về Đông Ngàn (nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội).
Sau khi vua Nghệ Tông nhường ngôi cho Trần Duệ Tông, năm 1376, Duệ Tông hăng hái đi đánh Chiêm, nhưng vì chủ quan, bị mắc mưu vua Chiêm là Chế Bồng Nga nên bị tử trận ở thành Đồ Bàn. Một hoàng thân là Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng vua Chiêm.
Vua Trần Nghệ Tông liền lập con của Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi, tức là Trần Phế Đế. Phế Đế ít tuổi nên mọi việc đều do thượng hoàng Nghệ Tông quyết định.
Năm 1377, người Chiêm đưa Trần Húc đã đầu hàng đến Nghệ An tiếm xưng ngôi vua. Tháng 6 (âm lịch) năm 1378, quân Chiêm đánh vào sông Đại Hoàng [2]. Hành khiển Đỗ Tử Bình được sai đi chống giữ, bị thua trận. quân Chiêm liền đánh vào kinh thành Thăng Long, bắt người cướp của rồi rút về...
Bị bắt, không ngớt mắng chửi quân thù
Lúc bấy giờ Lê Giốc đang giữ chức Kinh doãn tại kinh thành, bị quân Chiêm bắt được.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép:
...Nhiều người theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo lạy, ông cả giận nói: Tao là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man à? (Rồi) chửi không ngớt miệng, bị giặc giết. Việc đó đến triều đình, truy tặng (ông) là Mạ tặc trung vũ hầu (nghĩa là Ông hầu trung dũng chửi giặc).
Nhà sử học đời Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên đã khen ngợi Lê Giốc như sau:
Bỏ sống để giữ nghĩa còn hơn là sống, cầu sống mà chịu nhục người quân tử không làm. Kinh Dịch nói: Người quân tử thà hy sinh tính mạng để thực hiện chí hướng của mình, Giốc là người như vậy (tr. 165).
Đến đời nhà Nguyễn, nhà sử học Phan Huy Chú cũng đã trân trọng xếp Lê Giốc vào nhóm Bảy bề tôi tiết nghĩa đời nhà Trần (tr. 400). Và vua Tự Đức cũng có thơ vịnh Lê Giốc:
Đời mạt văn tàn võ chẳng trau
Quân thua một trận thật là đau
Chỉ đem tấc lưỡi la quân giặc
Để tiếng ngàn thu “Mạ tặc thần”.
Theo một bài viết đăng trên báo Thanh Hóa, thì ở làng Kẻ Rỵ có đền thờ Lê Giốc. Nhân dân ở đây từ lâu đã tôn ông làm Tiên hiền với duệ hiệu là: "Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, Mạ tặc trung vũ hầu Lê tướng công" [3]. Trong đền thờ có đôi câu đối:
Mạ tặc trung thần thanh vạn đại
Thướng thiên ánh tuyết bạch tam quan.
Nghĩa là:
Trung thần chửi giặc tiếng lưu vạn đại
Ánh hào quang trên trời vẫn rọi chiếu cửa đền.
Ngoài ra, theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam thì Lê Giốc còn được sắc phong là phúc thần, và có miếu thờ ở ven sông Đại Hoàng .
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Ghi Chú:
[1] Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch) ghi là Lê Giốc (tr. 400). Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi là Lê Giác (tr. 340).
[2] Sông Đại Hoàng, là khúc sông Hồng chảy qua Hưng Yên và Nam Định; nay là ngã ba Tuần Vương. Địa điểm trước kia vào năm 1285, trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông, quân nhà Trần đã đánh nhau với quân Thoát Hoan.
[3] Theo câu đối này, Lê Giốc thi đỗ Tiến sĩ, nhưng trong các sách dùng để tham khảo đều không thấy chép.
Sách tham khảo:
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 2, bản dịch). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985.
-Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (Tập 1, bản dịch). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.
-Nguyễn Q, Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển lịch sử nhân vật Việt Nam, mục từ “Lê Giác”. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1992.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét