Hình ảnh
Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2010
Từ Long Hồ dinh đến thành Vĩnh Long
Dinh Long Hồ hay Long Hồ dinh (chữ Hán chính thể: 龍湖營) là một địa danh cũ ở miền Nam vào thời chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
1. Nguyên nhân thành lập:
Do điều kiện lịch sử và địa lý, công cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các chúa Nguyễn.
Bởi vậy, tiếp tục đường lối của cha ông, sau khi lực lượng Prea Sot (Sá Tốt) [1] từ Chân Lạp kéo sang quấy nhiễu ở Sài Gòn bị đánh đuổi, chúa Nguyễn Phúc Chú (hay Trú, ở ngôi: 1725-1738) liền sai đặt sở Điều khiển ở Sài Gòn, đồng thời lập châu Định Viễn, dựng dinh (doanh) Long Hồ, để cai quản hai vùng đất mới là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) do vua Chân Lạp là Sâtha (Nặc Tha) vừa dâng để cầu hòa sau vụ Prea Sot. Sử nhà Nguyễn chép:
Năm Nhâm Tý thứ 7 (1732), ngài (Nguyễn Phúc Chú), thấy đất Gia Định (lúc bấy giờ chỉ toàn Nam Kỳ) rộng rãi quá, bèn sai các quan chia đất ấy đặt châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ [2].
2. Trở thành một dinh trấn quan trọng:
Buổi đầu, trị sở dinh Long Hồ đặt ở thôn An Bình Đông, thuộc xứ Cái Bè nên còn gọi là dinh Cái Bè (lỵ sở châu Định Viễn cũng đặt tại đây, nay thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang). Các chức vụ đầu dinh có lưu thủ, cai bạ và ký lục trông coi việc quân sự, hành chính và thuế vụ cho cả một miền đất rộng lớn [3].
Năm Mậu Ngọ (1738), chúa Nguyễn Phúc Khoát nối ngôi, thì năm sau (1739), Long Hồ dinh có thêm bốn huyện nữa do đô đốc Mạc Thiên Tứ đem dâng, đó là: Long Xuyên (vùng Cà Mau), Kiên Giang (vùng Rạch Giá), Trấn Giang (vùng Cần Thơ), Trấn Di (vùng phía Bắc tỉnh Bạc Liêu). Sau đó, chúa Nguyễn đem tất cả những miền đất phương Nam đã mở mang đặt thành ba dinh và một trấn là: Trấn Biên dinh (vùng Biên Hòa), Phiên Trấn dinh (vùng Gia Định), Long Hồ dinh (vùng Vĩnh Long) và Hà Tiên trấn (vùng Hà Tiên).
Năm Ất Hợi (1755), nội bộ vương triều Chân Lạp lại xảy ra việc tranh giành ngôi vị, tham mưu Nguyễn Cư Trinh và thống suất Trương Phúc Du được cử binh đi đánh Nặc Nguyên, lúc bấy giờ đang làm vua xứ ấy. Nặc Nguyên thua trốn sang Hà Tiên, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là vùng Tân An, Gò Công) để chuộc lỗi. Năm Bính Tý (1756), chúa Nguyễn Phúc Khoát cho sáp nhập hai phủ này vào châu Định Viễn, thuộc Long Hồ dinh.
Năm Đinh Sửu (1757), vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng Châu Đốc, Sa Đéc bây giờ) để tạ ơn chúa Nguyễn, vì đã điều động tướng Trương Phúc Du lấy lại ngôi vị cho mình. Chúa Nguyễn lại sai đem đất ấy sáp nhập vào Long Hồ dinh.
Cũng ngay năm này, theo đề nghị của ký lục dinh Long Hồ là Nguyễn Cư Trinh và thống suất Trương Phước Du, chúa Nguyễn thuận cho dời trị sở dinh Long Hồ và châu Định Viễn về xứ Tầm Bào thuộc địa phận Long Hồ thôn (tức vùng chợ Vĩnh Long ngày nay). Cử Tống Phước Hiệp làm lưu thủ, đồng thời chúa Nguyễn còn cho lập ba đạo để hỗ trợ việc coi giữ đó là: Đông Khẩu (ở phía Nam Sa Đéc), Tân Châu (ở đầu Cù lao Giêng, không phải tại thị trấn Tân Châu ngày nay) và Châu Đốc.
Đến lúc ấy, Long Hồ dinh là một dinh trấn quan trọng ở phía Nam xứ Đàng Trong, và trung tâm đầu não của nó có trách nhiệm cai quản cả một vùng đất rộng lớn.
Đề cập đến vai trò này, nhà văn Sơn Nam viết:
Kiểm soát sông Tiền, sông Hậu là vấn đề mà các chúa Nguyễn luôn quan tâm, nhất về mặt quân sự và về canh tác. Muốn dùng binh lên Cao Miên, phải cho chiến thuyền đi ngược sông Tiền để đến Nam Vang. Và đây còn là cuộc đất lý tưởng "sông sâu nước chảy" với những bờ đất phù sa cao ráo, rất thuận lợi cho việc trồng trọt...
Dinh Long Hồ kiểm soát được hai con sông lớn ấy. Đồng thời dinh này còn bao trùm luôn vùng biển vịnh Xiêm La với Long Xuyên đạo (Cà Mau), Kiên Giang đạo (Rạch Giá), chỉ trừ vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) nơi người Miên sống quá tập trung thì việc cai trị vẫn thuộc về họ [4].
Tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Hợi (1779), chúa Nguyễn Phúc Ánh duyệt lại bản đồ các dinh trong Gia Định, rồi cho dời thủ phủ Long Hồ dinh đến cù lao Hoằng Trấn ở giữa sông Hậu.
Sách Quốc triều Chính biên toát yếu chép:
Tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Hợi (1779), đổi dinh Long Hồ làm Hoằng Trấn, lãnh việc coi châu Định Viễn và ba tổng là Bình An, Bình Dương và Tân An [5].
Tuy nhiên, chỉ mới năm sau (Canh Tý, [1780]), thì lại cho lui về nơi cũ. Trịnh Hoài Đức giải thích:
Năm Kỷ Hợi (1779), đổi tên gọi là dinh Hoằng Trấn, lỵ sở ở chỗ ngày nay tục gọi là bãi Bà Lúa. Năm Canh Tý (1780), vì nghĩ rằng khi nước Cao Miên hữu sự, ở xa khó bề chế ứng nên phải đem lỵ sở trở lại đất thôn Long Hồ...[6]
Năm 1779, trên giấy tờ, địa danh Long Hồ dinh xem như không còn tồn tại nữa. Kể từ đó, Long Hồ dinh xưa lần lượt trải qua các tên gọi khác và địa phận cai quản của nó cũng bị thu hẹp dần:
-Năm 1779-1804: gọi là Hoằng Trấn dinh. Tuy nhiên, vẫn có người gọi theo tên cũ là Long Hồ dinh.
-Năm 1804-1808 gọi là Trấn Vĩnh dinh (hay Vĩnh Trấn dinh) [7].
-Tháng giêng năm 1808 [8]-1832 gọi là Vĩnh Thanh trấn.
-Năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mạng chia Nam Kỳ thành lục tỉnh [9], thì Vĩnh Thanh trấn trở thành Vĩnh Long tỉnh cai quản 4 phủ, 8 huyện, 47 tổng.
Hiện nay, địa danh Long Hồ còn là tên của một con sông (sông Long Hồ) chảy qua một địa phận cùng tên đó là huyện Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long.
3.Hoàn thành vai trò lịch sử:
Theo Đại Nam nhất thống chí, thì đất Tầm Bào (nơi đặt trị sở Long Hồ dinh ở Vĩnh Long) là một vùng đất màu mỡ do phù sa con sông Cổ Chiên bồi đắp, sông có nước đục nhưng ngọt quanh năm, rất thuận tiện việc trồng tỉa, chăn nuôi và sinh hoạt của cư dân...
Nhờ vậy, địa phận Long Hồ thôn, nhanh chóng trở thành một trung tâm quan trọng về nhiều mặt suốt một thời gian dài. Trong một bài viết của Hà Ngọc Trảng trên báo Vĩnh Long (ngày 29 tháng 4 năm 2009) có đoạn:
Năm 1732, Long Hồ dinh ra đời định vị một cuộc đất quan trọng đối với phương Nam về mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa... Và trong suốt 277 năm đồng hành cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử, Long Hồ dinh–Vĩnh Long đã hoàn thành xuất sắc vai trò sứ mạng lịch sử của mình.
Đặc biệt về mặt quân sự, ngoài những trận đối đầu ác liệt giữa quân chúa Nguyễn và quân Tây Sơn, sử cũ còn ghi lại nhiều trận giao chiến dữ dội giữa quân Việt với quân Xiêm và quân Chân Lạp ở những vùng đất mà Long Hồ dinh cai quản, và lần nào trị sở Long Hồ dinh ở Vĩnh Long cũng đều đảm nhận vai trò là đại bản doanh, là đầu não của quân đội Việt ở phía cực Nam.
Mãi đến thời thực dân Pháp sang xâm lược Việt Nam, vai trò này vẫn tiếp tục tồn tại mặc dù tên dinh trấn đã khác. Và nó chỉ thật sự chấm dứt kể từ khi lão thần nhà Nguyễn là Phan Thanh Giản tuẫn tiết và quân Pháp chiếm trọn Nam Kỳ năm 1867.
Thành Vĩnh Long hay thành Long Hồ ở Vĩnh Long, được xây dựng dưới triều Nguyễn, là thành trì và là trị sở chi phối về quân sự-kinh tế-văn hóa cả khu vực miền Tây Nam Kỳ thời bấy giờ. Tòa thành từng bị quân Pháp đánh phá hai lần: năm 1862 và 1867. Đến lần thứ hai, thì toàn thể Nam Kỳ cũng dần mất hết về tay Pháp. Đây là nơi lưu dấu của vương triều chúa Nguyễn-nhà Nguyễn và cũng là nơi chứng kiến sự bất lực và cái chết của lão thần Phan Thanh Giản, vì đã không thể hoàn thành được trọng trách của mình.
1. Tổng quan:
Thành Vĩnh Long xưa tọa lạc trên một gò đất cao (nay gần như đã phẳng) ở tại giao lộ 19 tháng 8 và đường Hoàng Thái Hiếu, thuộc phường 1, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.
Thành trì của dinh Long Hồ thời chúa Nguyễn không có thông tin, vì sử sách không biên chép và cũng không còn lưu lại dấu tích gì.
Thành Vĩnh Long thời nhà Nguyễn, nhờ Trịnh Hoài Đức mà biết được như sau:
Ngày 22 tháng 2 niên hiệu Gia Long thứ 12 (Quý Dậu, 1813), đắp thành trì, dựng công thự trên đất hai ấp Bình An và Trường Xuân thuộc thôn Long Hồ (nay thuộc Phường 1, thành phố Vĩnh Long). Đây là vùng có dãy sông lớn ôm quanh, giữ thế quan yếu, đúng là phên giậu vững vàng của thành Gia Định, khống chế Cao Miên, hai con sông lớn (sông Tiền và sông Hậu) chẹn chỗ hiểm yếu, giao thông đường thủy hết sức tiện lợi, ruộng vườn cũng rất tốt tươi...(phần Trấn Vĩnh Thanh)
Theo các nhà nghiên cứu, thì người lãnh trọng trách xây thành là khâm mạng trấn thủ Lưu Phước Tường. Thành đắp bằng đất, kiểu Vauban (kiểu kiến trúc thành lũy Tây Âu ở thế kỷ 17-thế kỷ 18), cửa chính hướng Đông Nam, lưng quay hướng Tây Bắc. Chu vi thành rộng 750 trượng, cao 1 trượng dày 2,5 trượng. Quanh thành có hào rộng, sông sâu.
Thành có 4 cửa hình vòm cong: cửa Tả nhìn ra sông Long Hồ, cửa Hữu nhìn ra rạch Ngư Câu (rạch Cái Cá), cửa Tiền nhìn ra đường Cầu Lầu, cửa Hậu nhìn ra sông Cổ Chiên (một nhánh lớn của sông Tiền). Bốn góc thành tạo thành hình hoa mai.
Trong thành, có 2 con đường dọc, 3 con đường ngang, có các công thự như: hành cung, nhà thừa ty, kho lương, trại lính...Phía Đông thành có quan lộ chạy dọc sông Long Hồ, phía trái là nhà Sứ Quán, phía phải là chợ Vĩnh Thanh (tức chợ Vĩnh Long ngày nay). Ở góc Nam của thành, có xưởng Thủy sư (xưởng đóng tàu chiến). Bên kia Cầu Lầu có xóm Lò Rèn chuyên làm đồ binh khí cho quân lính. Ngoài ra ở quanh thành còn có đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông và miếu Văn Thánh.
Để yểm trợ tòa thành này khi có biến, viên trấn thủ còn cho dựng lên ở giữa Cầu Lầu một trạm gác (bốn phía có lỗ châu mai) và hai đồn nhỏ: một ở phía Đông bãi Tiên và một ở Vàm Tuần.
Nhìn chung, thành Vĩnh Long tuy không rộng nhưng được xây dựng kiên cố, bố phòng chặt chẽ, thuận tiện đường tiến thủ.
Trong thời kỳ quân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, thành Vĩnh Long thất thủ hai lần: năm Nhâm Tuất (1862) và năm Đinh Mão (1867). Sau khi thành Vĩnh Long thất thủ lần thứ hai, quân Pháp đã phá tan tất cả đồn lũy và san bằng tòa thành, chỉ duy nhất còn lại một cây da và một ngôi miếu nhỏ ở cửa Hữu. Vào thập niên 50, cây da này bị lụi tàn. Sau đó, từ thân cây mẹ, mọc lên cây đa con và phát triển tươi tốt cho đến ngày nay.
Năm 2000 di tích Cây Da Cửa Hữu được xếp hạng di tích lịch sử-văn hóa. Trải qua thời gian dài, vì nhiều nguyên nhân, di tích đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Sau khi phục hồi (ngôi cổ miếu) & tôn tạo (cửa Hữu, nhà bia tưởng niệm), lễ khánh thành đã được tổ chức vào chiều 28 tháng 4 năm 2008.
2. Thơ cảm hoài:
Năm 1862, thành Vĩnh Long thất thủ lần đầu, tiếp theo là Hiệp ước Nhâm Tuất ra đời, danh sĩ Phan Văn Trị đã làm một bài thơ như sau:
Thất tỉnh Vĩnh Long
Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai, dạ xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa.
Tan nhà cám nỗi câu ly hận,
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn
Chú thích:
[1] Có sách ghi người cầm đầu tên là Sà Tốt. Nhưng theo các biên niên sử Chân Lạp thì đây chỉ là một di dân Lào ở làng Prea Sot (Sà Tốt) mà thôi (ghi chú của Nguyễn Đình Đầu trong Địa chí Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, tr. 159).
[2] Trong Le Cisbassac, Trương Vĩnh Ký cho rằng Long Hồ từ tiếng Khmer (lõn hòr) mà ra. Tuy nhiên Vương Hồng Sển vẫn còn ngờ khi viết rằng: "Có lẽ đây là Miên gọi theo ta?" (Tự vị tiếng nói Miền Nam. Nhà xuất bản Trẻ, 1999, tr. 413). Trong Gia Định thành thông chí (phần Trấn Vĩnh Thanh), tên sông Long Hồ được Trịnh Hoài Đức giải thích như sau: "Sông này chảy đến quanh co, chảy đi vòng vèo, dòng ngang uốn lượn, nước đọng trong ngần, bốn mùa ngon ngọt; cồn cát cao thấp xa gần, thôn xóm la liệt khắp đông tây ẩn hiện như rừng, như động, như vực, như đầm, nên mới gọi là Long Hồ (Hồ Rồng)". Tin theo đây, thì tên đất (Long Hồ) có nguồn gốc từ tên sông.
[3] Quốc triều sử toát yếu (Chính biên, tr. 46). Dinh Cái Bè là vùng đất rộng nằm hai bên bờ sông Tiền, nhưng vì mới khai phá nên chỉ lập một châu là Định Viễn, chưa lập phủ huyện.
[4] Sơn Nam, trang 37 và tr. 39.
[5]Thông tin thêm: "Đồng thời đạo Trường Đồn (tức Mỹ Tho và Cao Lãnh, được lập năm 1753) là chỗ đất quan yếu trong ba dinh, cho nên đặt dinh Trường Đồn" (Quốc triều Chính biên toát yếu, tr. 27).
[6] Gia Định thành thông chí (phần Trấn Vĩnh Thanh). Ở đây, Trịnh Hoài Đức viết thêm là: "trở lại đất thôn Long Hồ đổi tên là dinh Vĩnh Trấn". Nhưng theo sử Nguyễn vừa ghi bên trên và một vài sách khác, thì Long Hồ dinh đổi tên là Hoằng Trấn dinh, đến năm 1804 mới "chính thức" đổi tên là Vĩnh Trấn dinh. Tìm hiểu sự sai biệt này, thấy trong "Vĩnh Long xưa" của Huỳnh Minh có đoạn: "Thực ra, Nguyễn Phúc Ánh đã đặt tên Vĩnh Trấn dinh từ năm 1788, sau khi thu phục thành Gia Định. Nhưng bấy giờ hãy còn bận chinh chiến, việc cải tổ chưa thể dứt khoát (tr. 20).
[7] Trấn Vĩnh dinh là chép theo sử Nguyễn. Huỳnh Minh và một số tác giả khác ghi là Vĩnh Trấn dinh.
[8] Chép theo Quốc triều Chính biên toát yếu (tr. 96). Thông tin trên Website tỉnh Vĩnh Long ghi 1806 là không chính xác.
[9] Lục tỉnh gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Theo Nguyễn Q. Thắng, nhà Nguyễn đặt tên lục tỉnh dựa theo sau chữ cuối của một câu thơ cổ: Khoái mã gia biên vĩnh định an hà, nghĩa: Phóng ngựa ra roi giữ yên non nước (Trịnh Hoài Đức, một trong Gia Định tam gia, in trong sách Nam Bộ xưa và nay, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr.147). Tuy nhiên, theo sách An Giang xưa và nay thì địa danh An Giang đã có từ 1779 đời chúa Nguyễn Phúc Ánh (tác giả: Người Long Xuyên, phát hành trước 1975, tr. 10), cho nên thông tin trên cần tra cứu thêm.
Tài liệu tham khảo chính:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên). Nhà xuất bản Văn Học, 2002.
-Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam. Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
-Huỳnh Minh, Vĩnh Long xưa. Nhà xuất bản Thanh Niên in lại năm 2002.
Ảnh từ trên xuống:
1. Cửa Hữu thành Long Hồ (phục dựng để kỷ niệm)
2. Một đoạn sông Long Hồ chảy qua lỵ sở Long Hồ dinh, tức thành phố Vĩnh Long ngày nay.
3. Cây Da Cửa Hữu cùng một miếu thờ, di tích duy nhất còn lại của thành Vĩnh Long xưa.
4. Một mảnh vỡ của khẩu đại bác cùng hai viên đạn thời Nguyễn đang được thờ tại Công Thần Miếu Vĩnh Long.
Ảnh và bài của Bùi Thụy Đào Nguyên.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét