Nguyễn Trường Tộ
(1830 ? [1] – 1871), còn được gọi là Thầy Lân [2]; là một danh sĩ, kiến trúc sư
[3], và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
Ông sinh trong một gia đình theo đạo Công giáo từ nhiều đời
tại làng Bùi Chu, thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn
Quốc Thư, một thầy thuốc Đông y, nhưng mất sớm.
Những năm học tập
Thuở thiếu thời, Nguyễn Trường Tộ học chữ Hán với cha và các
thầy ở trong vùng: Tú Giai ở Bùi Ngõa, Cống Hữu ở Kim Khê và quan huyện Địa
Linh về hưu ở Tân Lộc.
Ông thông minh, học giỏi, nên được truyền tụng là
"Trạng Tộ". Thế nhưng, ông không đỗ đạt gì, có thể vì ông là người
Công giáo nên không được đi thi, hoặc là ông không muốn đi theo con đường khoa
cử .
Sau khi thôi học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi
được mời dạy chữ Hán trong Nhà chung Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Tại đây, ông được Giám mục người Pháp tên là Gauthier
(tên Việt là Ngô Gia Hậu, về Xã Đoài nhận nhiệm vụ từ năm 1846) dạy cho học
tiếng Pháp và giúp cho có một số hiểu biết về các môn khoa học thường thức của
phương Tây.
Cuối năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào vào Đà Nẵng
tránh nạn "phân tháp" (sáp nhập hai ba gia đình Công giáo vào trong
một làng không Công giáo, chứ không cho ở tập trung như trước) [4].
Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng
(Hồng Kông) [5] và một số nơi khác... [6]
Làm phiên dịch cho
quân Pháp
Đầu tháng 2 năm 1861, sau khi chiến tranh ở Ý và ở Trung
Quốc kết thúc, Đô đốc Léonard Charner được lệnh gom quân ở Trung Quốc đem về
Sài Gòn mở rộng vùng chiếm đóng. Với quyết tâm này, Charner đã thuyết phục được
một số giáo sĩ Pháp đang lánh nạn ở Hồng Kông, trong số đó có Giám mục
Gauthier, về Sài Gòn cộng tác. Nhận lời, Giám mục Gauthier dẫn Nguyễn Trường Tộ
cùng về với mình. Sau đó, ông Tộ nhận làm "từ dịch" (phiên dịch các
tài liệu chữ Hán) cho thực dân Pháp.
Trong bài "Trần tình" (viết xong ngày 7 tháng 5
năm 1863), Nguyễn Trường Tộ phân trần rằng: lúc bắt đầu khởi hấn (đầu năm 1859,
tức lúc quân Pháp chuẩn bị tấn công thành Gia Định), quân Pháp có mời ông cộng
tác, nhưng ông một mực từ chối. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (tháng 2 năm
1861), ông thấy rằng phải tạm hòa theo đề nghị của Pháp, để dưỡng quân và củng
cố lực lượng. Chính vì thế mà Nguyễn Trường Tộ đã nhận làm từ dịch cho Pháp để
mong góp phần vào việc hòa đàm...
Ngày 29 tháng 11 năm 1861, Đô đốc Louis-Adolphe Bonard lên
thay Đô đốc Léonard Charner, và ông này liền xua quân mở rộng cuộc chiến. Thấy
vậy, Nguyễn Trường Tộ không trông mong gì ở cuộc "nghị hòa" nên xin
thôi việc.
Hết lòng vì đất nước
Sau khi thôi việc, Nguyễn Trường Tộ đã dồn hết tâm trí vào
việc thảo kế hoạch giúp nước. Nhờ sự hiểu biết sâu rộng về các phương diện
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật...; đến đầu tháng 5 năm 1863,
thì ông đã thảo xong 3 bản điều trần gửi lên Triều đình Huế là: "Tế cấp
luận", "Giáo môn luận" và "Thiên hạ phân hợp đại thế
luận".
Ngoài ra, ông còn thảo thêm bài "Trần tình" gửi
lên để giải bày tâm tư và hoàn cảnh của mình, vì sợ Triều đình nghi ngờ ông,
người đã từng gần gũi với các giáo sĩ Pháp và làm việc cho quân Pháp.
Song tất cả đều không được phúc đáp. Đầu năm 1864, ông lại
gửi cho đại thần Trần Tiễn Thành một bản điều trần nữa (hiện thất lạc) [7] để
thuyết phục Triều đình Huế nên tạm hòa với Pháp và mở rộng bang giao.
Trong thời gian phái bộ Phan Thanh Giản ở Pháp về Sài Gòn
chờ tàu để đi Huế (từ ngày 18 đến 24 tháng 3 năm 1864), ông đã đến tiếp xúc với
các chánh phó sứ để thảo luận nhiều vấn đề liên quan đến việc xây dựng và bảo
vệ đất nước. Sau đó, ông viết "Lục lợi từ" (còn có tên "Dụ tài
tế cấp bẩm từ", tháng 6 năm 1864) rồi gửi lên Triều đình, nhưng sau đó
cũng không được phúc đáp.
Trong quãng thời gian đó, năm 1862-1864, bằng sự hiểu biết
của mình, ông đã thiết kế và chỉ đạo việc xây cất tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài
Gòn (nay ở số 4 đường Tôn Đức Thắng). Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu
châu Âu có quy mô và có giá trị bền vững cho đến tận ngày nay [8].
Thành công ấy đã làm cho tiếng tăm Nguyễn Trường Tộ lan
rộng. Khoảng năm 1864, ông được người Anh mời sang dự một hội nghị khoa học ở
Anh, nhưng chưa đi thì đã bị thực dân Pháp ngăn trở, có lẽ vì họ không muốn ông
liên lạc với người Anh.
Khoảng cuối năm 1864 cho đến đầu năm 1865, Nguyễn Trường Tộ
đã gửi liên tiếp ba bản điều trần cho đại thần Trần Tiễn Thành, và hai bản điều
trần cho đại thần Phạm Phú Thứ, để nhờ đưa các vấn đề quan trọng lên vua và
Triều đình. Hai văn bản gửi cho ông Thứ, vì chưa tìm thấy nên không rõ nội
dung. Còn ba văn bản gởi cho ông Thành, thì có thể là các bài: "Góp ý về
việc mua và đóng thuyền máy" (cuối 1864), "Góp ý về việc đào tạo
người điều khiển và sửa chữa thuyền máy" (tháng 2, 1865) và "Khai
hoang từ" (tháng 2, 1866).
Sau đó, Nguyễn Trường Tộ được triệu ra Huế để giải quyết vụ
tàu London. Về
vụ việc này, sách Đại Nam
thực lục kể đại ý như sau: "Trước đây, Hoàng Văn Xưởng đi Hương Cảng có
đặt mua tàu London.
Không ngờ bị Phô Na (chủ hãng tàu) lừa dối, tàu đã cũ nát, chưa đi tới nơi thì
đã bị sóng gió làm hư hại. Sau khi sửa chữa ở Gia Định, họ đưa tàu đến cửa
Thuận An (Huế) bắt phải mua [9]. Nhưng sau khi đệ trình lên cách giải quyết,
thì không được thi hành nên ông có lẽ chán nản, và xin về Nghệ An (ngày 10
tháng 4 năm 1866). Trong bức thư gửi Trần Tiễn Thành (viết từ Nghệ An đề ngày
15 tháng 6 năm 1866), thì tâm trạng của ông lúc bấy giờ khá u uất. Một phần vì
ông nóng lòng việc canh tân đất nước, một phần vì thấy vua và một số quan lại
bảo thủ hãy còn nghi kỵ mình...
Mặc dù vậy, Nguyễn Trường Tộ vẫn không nản chí. Về tới Nghệ
An, việc đầu tiên ông làm là viết thư cho Triều đình để báo tin về việc Giám
mục Gauthier nhận lời đi Pháp để mua các thứ cần thiết về mở trường kỹ thuật ở
Huế. Sau đó, ông được lệnh đi cùng Giám mục Gauthier ra Huế để chuẩn bị đi Pháp.
Khi ấy là giữa tháng 8 năm 1866.
Trong khoảng 3 tháng ở quê nhà, ông giúp Tổng đốc Nghệ An
Hoàng Tá Viêm đào kênh Sắt ở Hưng Nguyên. Truyện "Sự tích ông Nguyễn
Trường Tộ" kể:
Năm Tự Đức 19, Bính Dần (1866), ngũ nguyệt (tháng 5), Bộ sai
quan Tổng đốc Nghệ An là Hoàng Tá Viêm ra đào Kênh Sắt...Người viết thư cậy ông
Tộ đi khám xem hình đất, thế đất, chỉ lối cho mà đào... Kênh hoàn thành, ông Tộ
có làm bài thơ mừng Kênh Sắt [10].
Ngày 17 tháng 8 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục
Gauthier và Linh mục Nguyễn Điều tới Huế. Lần này, Nguyễn Trường Tộ được vua Tự
Đức tiếp kiến ở nhà Tả Vu trong Tử Cấm thành (Huế), được hỏi han nhiều điều, và
được nhà vua nghe theo.
Ngày 15 tháng 9 năm đó, phái đoàn Giám mục Gauthier và
Nguyễn Trường Tộ đi tàu của nhà vua vào Sài Gòn, và ở đó chờ tàu. Trong thời
gian lưu lại, hai ông đã có những cuộc tiếp xúc với Đô đốc Lagrandière và Lãnh
sự Tây Ban Nha để nắm tình hình theo yêu cầu của Triều đình. Sau đó, Nguyễn
Trường Tộ đã có 6 bản báo cáo gởi về Huế. Qua các văn bản này, ông trình bày
cho Triều đình thấy là có một khác nhau giữa ý đồ của của Pháp soái (tức Đô đốc
Lagrandière) ở Sài Gòn và chính sách của chính phủ ở Pháp. Pháp soái thì muốn
bằng mọi cách thôn tính hoàn toàn sáu tỉnh Nam Kỳ và áp đặt trên phần đất còn
lại của Việt Nam một hiệp ước bảo hộ; trong khi ấy ở chính quốc, thì có nhiều
dư luận chống đối các cuộc phiêu lưu quân sự ở các vùng đất xa xôi....
Ngày 10 tháng 1 năm 1867, phái đoàn đáp tàu L’orne đi Pháp.
Trong 8 tháng ở đây, họ đã mua sách vở, dụng cụ, máy móc...để lập trường học kỹ
thuật ở Huế. Ngoài ra, Giám mục Gauthier cũng đã tới Bộ Ngoại giao Pháp, Bộ
Hàng hải và Thuộc địa Pháp để xin tài trợ cho các chương trình của mình; đồng
thời tiếp xúc với một số thương gia và kỹ nghệ gia người Pháp. Ngày 25 tháng 11
năm 1867, phái đoàn trở về Việt Nam.
Theo Linh mục Nguyễn Bá Cần (tác giả sách Nguyễn Trường Tộ:
Con người và di thảo), thì có lẽ Nguyễn Trường Tộ đã theo Giám mục Gauthier
sang Rôma (Ý), rồi được vào chầu Giáo hoàng Piô IX nhân chuyến đi này.
Ngày 29 tháng 2 năm 1868, phái đoàn Giám mục Gauthier và
Nguyễn Trường Tộ về tới Huế. Cùng theo về còn có hai Linh mục, một giáo dân
(bác sĩ Hemaiz5) và một người thợ máy (tất cả đều là người Pháp, và đều do Giám
mục Gauthier vận động được). Sau khi xem xét các thứ mua về cho trường học và
các thứ mà Bộ Hàng hải Pháp gửi tặng, vua Tự Đức cho phép Giám mục Sohier được
xây trường học kỹ thuật trên mảnh đất đã đề nghị (nằm giữa nhà thờ Kim Long và
Tòa Giám mục Huế).... Theo tờ tấu của Viện Cơ mật đề ngày 4 tháng 3 năm 1868,
thì sau đó các thành viên trong đoàn đều được nhà vua ban thưởng tiền và lụa...
Đi Pháp về, trong thời gian từ cuối tháng 2 cho tới cuối
tháng 4 năm 1868, Nguyễn Trường Tộ đã gởi cho Triều đình, ít nhất là 9 văn bản.
Ngoài văn bản đầu tiên (sau khi về tới Huế), còn nói về việc mở trường và phát
triển đất nước, hầu hết các văn bản khác đều xoay chung quanh vấn đề sứ bộ đi
Pháp. Bởi Triều đình vua Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy
lại được 6 tỉnh Nam Kỳ đã mất vào tay Pháp. Sau những cuộc thương thuyết không
thành công giữa Trần Tiễn Thành và Đô đốc Lagrandière tại Sài Gòn cuối tháng 1
năm 1868, vua Tự Đức nhất định cử một phái bộ sang Pháp để điều đình với chính
phủ Pháp. Đối với vấn đề quan trọng này, quan điểm trước sau như một của Nguyễn
Trường Tộ là phải tự lực tự cường để lấy lại phần đất đã mất, chứ không thể van
xin nài nỉ. Tuy nhiên, ông vẫn sẵn sàng đi theo sứ bộ và đã có những kiến nghị
rất cụ thể cho chuyến đi.
Khoảng giữa tháng 3 năm 1868, Nguyễn Trường Tộ được cấp phát
ngựa và chi phí về Nghệ An thăm mẹ già trước lúc lên đường sang Pháp. Tuy
nhiên, sau khi trở lại Huế, ông đổi ý, kiến nghị với Triều đình là không nên
sai sứ bộ sang Pháp điều đình mà chỉ nên gởi sứ bộ vào Sài Gòn thương thuyết.
Việc đi Pháp vì thế phải đình hoãn không thời hạn. Ngày 18
tháng 4 năm 1868, Bộ Lễ lại cấp phép cho Nguyễn Trường Tộ trở về Nghệ An. Trước
đó, ngày 7 tháng 4 năm 1868, Giám mục Gauthier cũng đã lên đường trở về Xã Đoài
vì thấy việc mở trường kỹ thuật không được nói tới nữa [11].
Về lại Nghệ An, Nguyễn Trường Tộ bắt tay vào việc vận động
dân vùng Xuân Mỹ (Nghệ An) thường xuyên bị úng lụt đến nơi ở mới, đồng thời xây
cất Nhà Chung Xã Đoài [12]. Trong những năm này, ông vẫn đều đặn gửi lên triều
đình Huế các bản điều trần về thời sự.
Tháng 10 (âm lịch) năm Tự Đức thứ 23 (1870), Nguyễn Trường
Tộ gửi thư lên Triều đình đề nghị lập lãnh sự ở Sài Gòn và sứ quán ở Pháp để
nắm tình hình. Đầu tháng 11 năm đó, ông lại xin được vào Nam tổ chức đánh úp
quân Pháp để thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ, nhân lúc Pháp đang thua Phổ (Đức) và Cách
mạng Pháp đang nổi dậy.
Ngày 28 tháng 12 năm 1870, trong bản tấu của Viện Cơ mật
dâng lên vua Tự Đức có đoạn:
..."Bọn thần tuân phụng xét duyệt các khoản mật trần
của Nguyễn Trường Tộ thấy y cũng có lòng với ta và chính lúc này là lúc có thể
thừa cơ hội được. Ý kiến của bọn thần cũng đồng với các lý lẽ của thần Trần
Tiễn Thành tâu xin. Nhưng xét vì đây là việc quân quốc trọng sự cần phải bàn
thảo kín đáo kỹ lưỡng mới bảo đảm không nguy hiểm trở ngại sau này. Nay bọn
thần chưa giáp mặt y bàn tính mà đã nội giao cho y qua các nước thám sát những
việc cần phải làm, lỡ ra có chỗ nào chưa được chu đáo, sợ sẽ sinh trở ngại. Vậy
xin cho Bộ Lễ lấy lý do phái đem người qua Tây học tập, khẩn tư cho tỉnh thần
Nghệ An lập tức cấp ngựa, sức y lên kinh ngay để bọn thần ở Viện Cơ mật và Tòa
Thương Bạc đối diện hỏi bọn y xem suy tính cơ nghi như thế nào cho được chu
thỏa. Bọn thần sẽ suy nghĩ chín chắn đôi ba lần và phúc tâu đầy đủ. Vậy dám xin
có lời tâu bày, đợi chỉ tuân hành."
Đầu năm 1871, ông nhận được lệnh cấp tốc ra Huế với lý do
"đưa học sinh đi Pháp", nhưng kỳ thực là để bàn bạc với vua Tự Đức về
phương lược quân sự và ngoại giao mà ông đã trình bày trong các văn bản gởi cho
Triều đình cuối năm 1870. Nhưng Triều đình Huế bàn đi tính lại mà không đi đến
được một quyết định nào: Sứ bộ không được cử đi các nước, kế hoạch đánh úp Pháp
để thu hồi 6 tỉnh ở Nam Kỳ cũng không được thực hiện...
Sau mấy tháng ở Huế, có thể là vì không có việc gì để làm,
hoặc có thể vì bệnh cũ tái phát, Nguyễn Trường Tộ đã xin phép trở về Xã Đoài
(Nghệ An).
Qua đời
Giữa năm ấy, ông về lại Xã Đoài, và đến ngày 22 tháng 11 năm
1871 thì đột ngột từ trần. Lúc ấy, ông chỉ mới khoảng 43 tuổi.
Con ông là Nguyễn Trường Cửu, trong Sự tích ông Nguyễn Trường
Tộ chỉ nói ngắn gọn rằng: "Qua năm sau, Tự Đức 24 (1871), ngày 10 tháng
10, ông Tộ làm câu thơ rằng: "Nhất thất túc thành thiên cổ hận / Tái hồi
đầu thị bách niên cơ" (Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận / Ngoảnh đầu cơ
nghiệp ấy tăm năm) đoạn thì qua đời. Thọ 41 tuổi".
Nhiều chứng cứ cho thấy ông mất vì bệnh xuất huyết bao tử.
Riêng Giám mục Gauthier cho rằng ông bị đầu độc. Trong một thư đề ngày 1 tháng
11 năm 1871, vị Giám mục này viết: "Người Giáo hữu Việt Nam mà tôi đem theo năm 1867 và
người ta gọi là Kiến trúc sư (...) đã là nạn nhân của một âm mưu đầu độc".
Sau đó, thân xác ông được an táng tại thôn Bùi Chu. Phần mộ
của ông xưa kia chỉ là một nấm mộ đất thấp. Năm 1943, với sự đóng góp của ông
Từ Ngọc Nguyễn Lân và một số thân sĩ ở Nghệ Tĩnh, một ngôi mộ bằng đá cẩm thạch
đã được dựng lên trên một gò đất cao, giữa một cánh đồng rộng.
Vợ, con
Không biết chắc Nguyễn Trường Tộ đã lập gia đình lúc nào. Có
thể là trong khoảng thời gian ông trở về Nghệ An, sau khi các dự án canh tân
của ông gởi vua Tự Đức bị chống đối nên bị bỏ dở (sau tháng 4 năm 1868). Con
ông gồm một trai, một gái. Người con gái lấy chồng ở một làng kế cận. Người con
trai là Nguyễn Trường Cửu (ông mất khi Trường Cửu mới được 18 tháng), có tư
chất thông minh, được học hành, thường được gọi là "Đồ Cửu". Ông Cửu
mất vào khoảng năm 1942, và đã để lại tác phẩm Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ.
Tác phẩm
Kể từ khi về nước (khoảng 1861) cho đến năm cuối đời (1871),
Nguyễn Trường Tộ đã đều đặn gửi lên vua Tự Đức và triều đình Huế các bản điều
trần và phúc trình về thời sự. Đáng chú ý có:
-Hòa từ (Bàn về hòa) gửi tướng Nguyễn Bá Nghi (1861)
-Tế cấp luận (Bàn về những việc khẩn cấp, tháng 3 - 4 năm
1863, hiện chưa tìm thấy)
-Giáo môn luận (Bàn về việc tự do tôn giáo, 26 tháng 3 năm
1863)
-Thiên hạ phân họp đại thế luận (Bàn về những thế lớn phân
và hợp trong thiên hạ). Đây là bài "Hòa từ" được sửa chữa lại (1863)
-Điều trần (7 tháng 5 năm 1863)
-Lục lợi từ (Kế hoạch làm cho dân giàu, tháng 6 năm 1864)
-Khai hoang từ (Bàn về việc khai hoang, tháng 2 năm 1865)
-Điều trần khả năng lấy lại ba tỉnh miền Đông [Nam Kỳ]
(1866)
-Kế hoạch vận động ở Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây [Nam Kỳ]
(1866)
-Báo cáo về việc gặp viên Lãnh sự Tây Ban Nha (1866)
-Kế ly gián giữa Anh và Pháp (1866)
-Điều trần về hội nước ngoài (1866)
-Phúc trình về việc ký hợp đồng với các hội nước ngoài (gửi
về khi sang Pháp năm 1887)
-Về tám điều cần bàn gấp (gửi về khi sang Pháp năm 1867)
-Điều trần về việc tiễu trần giặc biển (tháng 8, 1868)
-Điều trần về việc tái tu võ bị (1869)
-Kế hoạch nội công ngoại kích thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (tháng
11, 1870)
-Bổ sung kế hoạch sai sứ đi Tây và đánh úp Gia Định (tháng
11, 1870)
-Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh
(tháng 2, 1871)
-Kế hoạch thương nghị với Pháp và vận động sự giúp đỡ của
các nước khác (tháng 2, 1871)
-Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (tháng 2, 1871)
-Về việc gửi học sinh sang Singapore học sinh ngữ (tháng 2,
1871)
-Về việc nhờ Giám mục Hòa giúp lấy lại 6 tỉnh (tháng 3,
1871)
-Tu võ bị (bàn về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng,
tháng 5, 1871)
-Về việc cần canh tân, quảng giao để giữ nước (tháng 8,
1871)
-Về việc nông chính (tháng 8, 1871), v.v...
Ngoài ra, Nguyễn Trường Tộ còn để lại một số di cảo thơ.
Tóm tắt nội dung các
bản điều trần
Nguyễn Trường Tộ đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 58 bản
điều trần (theo tập họp của Linh mục Nguyễn Bá Cần) đề xuất canh tân xây dựng
đất nước. Nội dung các bản điều trần đề cập đủ mọi lĩnh vực. Tóm tắt các mặt
chủ yếu:
-Về chính trị:
Ông trình bày những chiến lược cơ bản, về những thế lớn phân
và hợp trong thiên hạ ("Thiên hạ phân hợp đại thế luận", 1863) và đề
xuất "Kế ly gián giữa Anh và Pháp" (1866). Không hề ảo tưởng về dã
tâm của thực dân Pháp, nhưng ông rất sáng suốt chủ trương tạm hòa hoãn với
Pháp, gợi ý với nhà vua về lợi ích lớn của việc "Mở rộng quan hệ với Pháp
và các nước khác" (1871)...
-Về nội chính:
Ông đề nghị triều đình tinh giản bộ máy chính quyền để đỡ
hao tốn công quỹ, xác định rõ chức năng công việc của từng loại quan lại để
khỏi phải có rất nhiều người ăn lương mà không biết làm gì. Mặt khác, nên có
chính sách đối với những nho sinh để họ không thể dựa vào chút chữ nghĩa, trốn
tránh nghĩa vụ đối với nước nhà. Ngoài ra, muốn cho đội ngũ viên chức giữ được
thanh liêm thì phải tạo điều kiện cho họ làm giàu chính đáng...
-Về tài chính:
Ông đề nghị sắp đặt lại hệ thống thuế khóa cho thật công
bằng hợp lý. Muốn thế phải đo đạc lại ruộng đất, kê khai nhân khẩu, tăng thuế
người giàu và hàng xa xỉ ngoại nhập, đánh thuế thật nặng vào những tệ nạn như
cờ bạc, rượu chè,...Ngoài ra, còn phải khuyến khích nhà giàu bỏ tiền ra cho
vay, và vay tiền của nước ngoài...
-Về kinh tế:
Ông đề nghị chấn hưng "nông, công, thương nghiệp"
để làm cho dân giàu nước thịnh, bằng những hành động cụ thể như: tổ chức khai
hoang, bảo vệ rừng, thành lập các đoàn tàu đem hàng nông sản đi bán, cử người
thăm dò tài nguyên, khai thác mỏ, thành lập các cơ sở sản xuất công nghệ và đào
tạo thợ kỹ thuật…Và để nền kinh tế cả nước có thể giao thông dễ dàng, thì phải
chú ý đến việc làm mới và tu bổ đường bộ và đường thủy....
-Về học thuật:
Ông đề nghị cải cách "việc học, việc thi" để chọn
được nhân tài hữu ích. Không nên tiếp tục lối học "máy móc, tín điều"
kiểu Trung Hoa. Đáng chú ý là việc ông đề nghị đem các môn khoa học vào trong
chương trình học, nhất quyết phải dùng quốc văn (chữ Nôm) để dạy học và soạn
sách, kể cả trong các giấy tờ hành chính...
-Về ngoại giao:
Ông chủ trương quan hệ mềm mỏng với Pháp, và không chỉ có
Pháp mà còn phải đặt ngoại giao với nhiều nước khác như Anh, Tây Ban Nha...
Phải biết lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này để có lợi cho mình. Phải đào tạo
được các thông dịch viên giỏi công việc và tiếng nước ngoài...
-Về võ bị:
Ông đề nghị cải tu võ bị nhằm tăng chất lượng của quân đội,
như tổ chức lại đội ngũ, cho quân lính được học tập các binh pháp mới, mua sắm
tàu thuyền và vũ khí[30], xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề
phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước...
Bên cạnh đó, ông còn đề nghị cải cách về các mặt khác như
văn hóa, tôn giáo, bảo tồn di tích lịch sử, v.v...Tuy nhiên, phần lớn những đề
nghị của ông đã không được triều đình nhà Nguyễn nghe theo do tầm nhìn hạn hẹp
của họ và hạn chế của thời đại.
*
Các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã nói lên rất rõ tấm
lòng yêu nước thiết tha của ông. Ông tin tưởng vào triển vọng canh tân của Nhật
Bản, đặt hết hy vọng vào thế hệ trẻ được đào tạo bằng thực nghiệp có thể làm
mạnh thế nước... Tuy chưa có ý thức thay thế thể chế phong kiến bằng một thể
chế dân chủ, bởi tình thế đất nước chưa có phép làm điều đó, nhưng tư tưởng của
ông đã tiến rất gần các nhà tư tưởng tiến hóa luận của phương Tây. Có thể nói,
ông đã gợi ra cho người lãnh đạo đất nước những cách nghĩ, cách nhìn cởi mở và
táo bạo mà hàng thế kỷ về sau vẫn đáng để suy gẫm. Tóm lại, ông quả là một con
người có trí thông minh, nhìn xa thấy rộng, có khả năng ứng dụng vào thực tế
vốn liếng tri thức uyên bác cũng như những điều mình sở đắc. Tiếc thay, ông lại
"sinh không gặp thời", do đó ông đã không thực sự đóng một vai trò
nào trong lịch sử, ngoài vai trò "làm chứng về tấm lòng của một con người,
về vận hội của một đất nước".
Về đóng góp cho văn học Việt, ông đã để lại một lối văn mang
phong cách "chính luận - trữ tình": vừa phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắt
bén, khúc chiết trong phân tích (chịu ảnh hưởng khá rõ tư duy lôgic phương
Tây); nhưng cũng vừa thấm đẫm cảm hứng trữ tình của tác giả (vì ông phơi trải hết
lòng mình), nên có sức thuyết rất mạnh. Ngoài ra, ông còn để lại một số di cảo
thơ. Nhìn chung thơ ông mang phong cách trữ tình khoáng đạt, và có thể chia
thành hai mảng: những bài "tức cảnh, sinh tình" và những bài
"Ngôn chí, tự tình"...
Chú thích
[1] Về năm sinh của Nguyễn Trường Tộ, theo GS. Lê Thước
trong bài “Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử” đăng trên Nam Phong tạp chí số
102, và hầu hết các tác giả tiếp sau đó, đều nói: "ông sinh năm Minh Mạng
năm thứ 9 (1828)". Tuy nhiên, trong "Sự tích ông Nguyễn Trường
Tộ" do Nguyễn Trường Cửu (con trai của Nguyễn Trường Tộ) viết, mặc dù
không nói năm sinh, nhưng nói: "mất ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức 24
(1871)... thọ 41 tuổi", tức sinh năm 1830 hoặc 1831 (thường thì tuổi thọ
tính theo tuổi ta). Hiện nay, theo Linh mục Nguyễn Bá Cần, thì vẫn chưa có đủ
tài liệu để xác định một cách chắc chắn về năm sinh của ông (sách ở mục tham
khảo, phần I: "Nguyễn Trường Tộ - Con người". Bản điện tử trang 1).
[2] Tên "Thầy Lân" từng được nói tới trong các thư
của các thừa sai người Pháp lúc bấy giờ. Trong tờ tấu của Cơ mật viện (Huế) đề
ngày 14 tháng 5 năm 1867, cũng thấy nói: "Nguyễn Trường Tộ, tức tên Thầy
Lân" (dẫn theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 1).
[3] Giám mục Gauthier và người dân lúc ấy thường gọi Nguyễn
Trường Tộ bằng danh hiệu "Kiến trúc sư", mặc dù ông chưa học qua
chuyên ngành. Như trong thư gửi Hội Truyền giáo Nước ngoài ở Paris (đề ngày 1 tháng 1 năm 1870), Giám mục
Gauthier viết: "...Người ta quen gọi là Kiến trúc sư vì ông ta (chỉ ông
Tộ) đã xây ngôi nhà ba tầng của các nữ tu Sài Gòn, một nhà nguyện và một ngọn
tháp cao nổi bật..." (dẫn lại theo Nguyễn Bá Cần, bản điện tử trang 2).
[4] Đầu tháng 9 năm 1858, quân Pháp bắt đầu đánh chiếm cảng
Đà Nẵng. Để kiểm soát và ngăn chặn người Công giáo có thể tiếp tay với họ, Triều
đình Huế cho bắt giam các giáo sĩ và trùm trưởng, đồng thời ra lệnh "phân
tháp" giáo dân. Nghĩa là phân tán người Công giáo bằng cách tháp nhập (sáp
nhập) hai ba gia đình Công giáo vào trong một làng không Công giáo, chứ không
cho ở tập trung. Đây là một biện pháp gây nhiều thiệt hại và đau khổ cho đồng
bào Công giáo lúc bấy giờ.
[5] Sau khi quân Pháp bị cầm chân ở Đà Nẵng, theo Nguyễn Bá
Cần (sách đã dẫn, bản điện tử trang 1), thì các giáo sĩ Pháp ở Đà Nẵng, đứng
đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp đánh kinh đô
Huế. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể đánh Huế mà phải
chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Nam, Đô đốc Rigault de
Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi
tạm lánh ở Hương Cảng. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ đã đi sang
nơi đó trong hoàn cảnh như thế.
[6] Hầu hết các tác giả, kể cả Nguyễn Trường Cửu (con trai
của Nguyễn Trường Tộ) đều nói là từ Hồng Kông, Giám mục Gauthier đã đem Nguyễn
Trường Tộ sang Pháp, sang Roma (Ý) vào chầu Giáo hoàng Piô IX. Nhưng nay thì
biết rõ rằng trong những năm 1859-1860, Giám mục Gauthier không về Pháp. GS.
Đào Duy Anh nói là "Giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Hồng Kông
rồi để cho Nguyễn Trường Tộ một mình đi Pháp”...Sự thực là với tài liệu hiện
có, không biết chắc được là trước năm 1861, Nguyễn Trường Tộ có đi sang các
nước phương Tây để tìm tòi học hỏi hay chỉ quanh quẩn ở các nước Đông Nam Á như
Hồng Kông, Mã Lai... là những nơi có cơ sở hậu cần lớn của Hội Truyền giáo Nước
ngoài của Paris...(theo Nguyễn Bá Cần, bản điện tử trang 1. Cũng theo ông Cần
thì ông Tộ có lẽ sang Ý nhân chuyến đi Pháp năm 1867).
[7] Nhờ Nguyễn Trường Tộ có nhắc tới văn bản này trong thư
gửi cho đại thần Phan Thanh Giản vào tháng 3 năm 1864, mà biết được nội dung
chủ yếu của nó.
[8] Tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn được khởi công từ
tháng 9 năm 1862 và hoàn tất ngày 18 tháng 7 năm 1864. Linh mục Le Mée (thừa
sai Paris)
trong một bức thư đăng trên tập san Missions Catholiques năm 1876, có nói về
công việc ấy như sau: "Đức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc đã đem theo
một nho sĩ Bắc Kỳ, tên là Lân (tức Nguyễn Trường Tộ). Với trí thông minh hiếm
có, lại được gợi ý và được thúc đẩy bởi sự nhiệt tình và tận tụy của Giám mục
Gauthier, nho sĩ Bắc Kỳ này, vì tình yêu Thiên Chúa, đã nhận đứng ra đốc suất
công việc. Trước kia, ông có ở Hồng Kông ít lâu và trong thời gian ngắn ngủi
tại thuộc địa này của người Anh, ông đã thấy được cách thức và thể loại kiến
trúc của châu Âu. Thời đó ở Sài Gòn, chưa có một công trình nào làm kiểu mẫu.
Với đề án của tu viện và nhà nguyện do Nữ tu Benjamin cung cấp, ông ta đã phác
họa được một họa đồ phối cảnh chung và thực hiện công trình nhờ sự cộng tác của
các công nhân người Việt. Chính ông đã phải vẽ sơ đồ của tháp chuông và tự mình
trông nom công việc một cách rất cẩn thận, và chính ông đã hoàn thành nhiều
phần khác của công trình. Mỗi ngày người ta thấy ông có mặt ở công trường và để
ý tới từng chi tiết. Phải thú nhận là nếu không có ông thì không thể thực hiện
được một công trình như vậy vào một thời điểm mà ở Sài Gòn chưa có thợ cũng như
chưa có nhà thầu..." . Như thế, cơ sở của Dòng Thánh Phaolô do Nguyễn
Trường Tộ (từng được Giám mục Gauthier gọi là "Kiến trúc sư") xây cất
nổi lên giữa Sài Gòn năm 1864 như một công trình kiên cố có tầm cỡ.
[9] Đại Nam
thực lục, phần "Chính biên". Bản dịch của Nhà Xuất bản Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1974, trang 35-36.
[10] Nguyễn Trường Tộ đã khai thông được con đường thủy từ
Sông Cấm cho tới sông Vinh, xóa bỏ được Thiết Cảng (Cửa Sắt), để làm thành Kênh
Sắt, mà ngày nay gọi là Kênh Gai hay kênh Nguyễn Trường Tộ. Công việc đào có lẽ
hoàn thành trong những ngày Nguyễn Trường Tộ còn ở Nghệ An, tức giữa năm 1866,
và ông đã làm bài bạt "Mừng đào xong Thiết Cảng".
[11] Trong một bức thư gởi Hội Truyền giáo Paris, đề ngày 31
tháng 3 năm 1868, Giám mục Gauthier viết: "...Công việc sẽ tiến triển
nhanh hơn nếu không có việc cử sứ bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ
này... Trong các quan thượng thư, có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm
của nhà vua...". Hai vị "cựu trào" trong thư là Nguyễn Tri
Phương và Võ Trọng Bình. Nhưng, theo Nguyễn Bá Cần (bản điện tử: tr. 3) có lẽ
không phải chỉ có hai vị đại quan ấy, mà có cả một luồng dư luận khá rộng rãi,
trong Triều đình cũng như ở các tỉnh, tỏ ra dè dặt, lo sợ trước ảnh hưởng của
các giáo sĩ người Pháp: Một trường đào tạo nhân tài đầu tiên hoàn toàn do các
thầy người Pháp, đặt ngay bên cạnh Tòa Giám mục, dưới sự giám sát của Giám mục.
[12] Trước kia dân Xuân Mỹ ở vùng dưới chân đồi thấp, tới
mùa mưa thì lầy lội, bẩn thỉu. Nguyễn Trường Tộ đã khuyên dân dời cư lên triền
đồi cách chỗ ở hiện nay khoảng 400 mét về phía Tây. Chính ông đã vẽ đường, chia
ô cho các hộ. Trong số các công trình do Nguyễn Trường Tộ xây cất ở Nhà Chung Xã
Đoài, nay chỉ còn lại nhà tràng Latinh (tức tiểu chủng viện) ba tầng, hình chữ
thập gọi là “nhà Tây”, chứ Tòa Giám mục và các nhà phụ thuộc đều đã bị bom Hoa
Kỳ đánh sập (theo Nguyễn Bá Cần).
Sách tham khảo
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều dử toát yếu. Nxb Văn
học, 2002.
-Nguyễn Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ – con người và di thảo. Nxb
TP. Hồ Chí Minh, 2002. Xem online tại đây:
[http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=13703.0]
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ: “Nguyễn Trường Tộ” trong Từ điển
văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
-Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam.
Nxb Khoa học xã hội, 1992.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ-Điển tích-Danh nhân từ điển
(quyển 2). Nxb Hồng Thiêng, Sài Gòn, 1967.
-Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt
Nam (tập 4).
Nxb Trẻ, 2007