Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012

Giáo sư Nguyễn Đăng Thục


Nguyễn Đăng Thục (1909-1999) là nhà giáo dục, nhà nghiên cứu triết học và văn học Việt Nam ở thế kỷ 20.

Ông sinh ngày 14 tháng 6 năm 1909 [1] trong một gia đình có truyền thống nho học và khoa bảng, tại làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc ngoại thành Hà Nội).

Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở trường làng, học cấp trung học ở trường Albert Sarraut (Hà Nội). Năm 1927, Nguyễn Đăng Thục sang du học ở Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ. Sau khi, đỗ tú tài I và II ban Triết học và Toán học tại Marseilles ở miền Nam nước Pháp, ông theo học kỹ nghệ và khoa học tại L’École Nationale des Arts (Trường Quốc gia Mỹ thuật) và Đại học Lille ở Roubais ở miền Bắc nước Pháp, rồi tốt nghiệp Kỹ sư hóa học.

Năm 1934, ông trở về nước cùng với Bùi Ngọc Ái, Vũ Đình Di. Năm sau (1935), ông cùng với hai bạn này xuất bản tờ báo L’Avenir de la Jeunesse (tương lai của tuổi trẻ) tại Hà Nội.

Năm 1937, ông làm bỉnh bút (biên tập viên) cho tờ Le Travail (Lao Động). Ít lâu sau tờ báo này bị đình bản, ông quay về với nghề chuyên môn đã học là ngành kỹ nghệ, nhận làm kỹ sư hóa học cho Nhà máy dệt Nam Định (S.F.A.T). Trong thời gian làm việc ở đây, ông đã dành nhiều thì giờ nghiên cứu về văn hóa Á Đông và đã viết hai tác phẩm Bình giải sách Đại học và Tinh thần khoa học và đạo học. Năm 1944, ông đứng ra xuất bản tạp chí Duy Nhất tại Nam Định với chủ trương dung hòa văn hóa Đông-Tây.

Năm 1945, Nguyễn Đăng Thục thôi việc tại Nhà máy dệt Nam Định, về làng Thụy Khê gần hồ Tây (Hà Nội) mở nhà máy riêng và tham gia các hoạt động văn hóa.

Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19 tháng 2 năm 1946), ông làm kỹ sư cho công binh xưởng Liên khu III. Năm 1948, ông làm Giám đốc học vụ Trường Dân Huấn Vụ.

Năm 1949, ông hồi cư về Hà Nội và qua năm sau, ông được mời dạy bộ môn Triết học Đông phương tại Trường Đại học Văn Khoa Hà Nội, và làm chủ bút tờ Văn hóa tùng biên.

Năm 1954, Nguyễn Đăng Thục vào Sài Gòn làm việc ở bộ Văn hóa, giảng dạy triết học Đông phương và văn chương Việt Nam tại Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Cùng thời điểm này, ông còn đứng ra sáng lập và làm Chủ tịch Hội Việt Nam Nghiên cứu và Liên lạc Văn hóa Á châu, làm Chủ nhiệm và Chủ bút tạp chí Văn hóa Á châu.

Từ năm 1961 đến năm 1964, ông giữ chức Giáo sư Khoa trưởng Khoa Văn học Việt Nam tại Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Trưởng tiểu ban văn hóa của tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) tại Việt Nam.

Trong khoảng năm 1964-1965, ông cùng một số trí thức, nhân sĩ tiến bộ ở Sài Gòn như Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Bác sĩ Phạm Văn Ngỡi, nhà báo Cao Minh Chiếm, thi sĩ Trần Tuấn Khải, v.v...công khai ký một bản kiến nghị yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa trực tiếp thương thuyết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để chấm dứt chiến tranh. Do đó ông bị chính quyền Phan Huy Quát cách chức và buộc thôi dạy ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.

Năm 1967, ông được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mời giữ chức Khoa trưởng phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn kiêm Giáo sư môn Triết học Đông phương tại Viện Đại học Vạn Hạnh cho đến năm 1975. Khi tham gia giảng dạy tại đây, năm 1973, ông được Viện Đại học Vạn Hạnh trao văn bằng Tiến sĩ danh dự nhân kỷ niệm 10 năm thành lập.

Sau năm 1975, ông nghỉ dạy vì tuổi cao sức yếu. Giáo sư Nguyễn Đăng Thục mất ngày 3 tháng 6 năm 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 90 tuổi.

Tác phẩm của GS. Nguyễn Đăng Thục đã xuất bản trước năm 1975:

o Đại học, Tứ hải (Hà Nội, 1940)

o Triết lý nhân sinh Nguyễn Công Trứ (Hà Nội, 1950)

o Tinh thần khoa học Đạo học (Văn hóa hiệp hội Hà Nội, 1953. Năm 1967, Khai trí ở Sài Gòn in lại)

o Dân tộc tính (Văn hóa vụ Sài Gòn, 1956)

o Triết lý văn hóa khái luận (Văn hữu Á châu, Sài Gòn, 1956)

o Triết học Đông phương nhập môn (Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, lần I: 1958, lần 2: 1960)

o Văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á (Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn, 1961)

o Lịch sử triết học Đông phương tập I (Linh Sơn, Sài Gòn, 1956. Duy Nhất in lại, Sài Gòn, 1963)

o Lịch sử triết học Đông phương tập II (Linh Sơn, Sài Gòn, 1956. Khai Trí in lại, Sài Gòn, 1963)

o Lịch sử triết học Đông phương tập III (Đông Phương, Sài Gòn, 1956)

o Lịch sử triết học Đông Phương tập IV (Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, lần thứ I: 1962, lần thứ 2: 1968)

o Lịch sử triết học Đông phương tập V (Bộ Quốc gia giáo dục Sài Gòn, 1964)

o Tư tưởng Việt Nam (Khai Trí, Sài Gòn, 1964)

o Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập I (Phủ Quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1967)

o Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập II (Phủ Quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1970)

o Thiền học Việt Nam (Lá Bối, Sài Gòn, 1967)

o Democracy in traditional Vietnamese society (Nền dân chủ trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Bộ Giáo Dục, Sài Gòn, 1962)

o Asian culture and Vietnamese humanism (Văn hóa châu Á và chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Hội Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn, 1965)

o Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập III, IV, V, VI, in 1973 tại Sài Gòn)

o Vũ trụ nghệ thuật Nguyễn Du (1973)

o Lý hoặc luận của Mâu Bác (dịch và chú thích)

o Triết học Thiền của Trần Thái Tông (1970)

o Khóa hư lục của Trần Thái Tông (dịch và chú thích, in 1972). Ngoài ra, ông còn một số ít tác phẩm chưa xuất bản.

Sau năm 1975, một số tác phẩm của ông đã được chọn in lại, trong đó có hai bộ sách đồ sộ là Lịch sử triết học Đông phương (trọn bộ 5 tập. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991) và Lịch sử tư tưởng Việt Nam (trọn bộ 6 tập. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992)[2].

*

Hầu hết tác phẩm của Nguyễn Đăng Thục đều là một cái nhìn tổng thể về lịch sử tư tưởng phương Đông, nhất là lịch sử tưởng Việt Nam. Nổi bật nhất là bộ Lịch sử triết học Đông phương. Đây là "công trình đầu tiên" bằng tiếng Việt, giới thiệu một cách hệ thống các trào lưu tư tưởng phương Đông khởi đầu từ Ấn Độ, Trung Hoa và các nước châu Á.

Một công trình nổi bật khác, đó là bộ Lịch sử tư tưởng Việt Nam. Ở đây, tác giả giới thiệu lịch sử tư tưởng Việt Nam kể từ khi người Việt xây dựng Nhà nước cổ đại cho đến thời kỳ văn hóa phương Tây du nhập vào nước Việt trong thế kỷ 16. Suốt chiều dài mấy ngàn năm đó, người Việt đã từng bước chắt lọc các nguồn tư tưởng ngoại lai và hòa hợp với tư tưởng bản địa để có một hệ tưởng Việt Nam đa dạng và phong phú.

Ngoài ra, ông còn có một số sách viết về thiền học Việt Nam, rất có giá trị. Với tư cách chuyên sâu của một học giả, lần đầu tiên Nguyễn Đăng Thục đặt thiền học trong tiến trình lịch sử tư tưởng dân tộc để xem xét một cách cặn kẽ…

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Chú thích:
[1] Ghi theo Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1126). Website Thư viện Hoa sen ghi Nguyễn Đăng Thục sinh ngày 19 tháng 9 năm 1908

Nguồn tham khảo:
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Huệ Chi, mục từ “Nguyễn Đăng Thục” trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.

-Tiểu sử Nguyễn Đăng Thục trên Website Thư viện Hoa Sen.

Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012

Vũ Anh Khanh và bài thơ Tha La xóm đạo của ông


I. Tác giả:
Vũ Anh Khanh tên thật là Võ Văn Khanh [1] (1926-1956); là nhà thơ, nhà văn Việt Nam thời kháng Pháp.

Ông sinh tại Mũi Né (trước thuộc quận Hải Long, nay thuộc thành phố Phan Thiết), tỉnh Bình Thuận.

Không rõ thân thế, chỉ biết trước năm 1945, ông vào ở Sài Gòn và làm báo, viết văn. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19 tháng 12 năm 1946), ông cùng hoạt động với Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà...trong nhóm văn học yêu nước ở Sài Gòn.

Năm 1950, bị nhà cầm quyền Sài Gòn lùng bắt, ông và một bạn bè trốn thoát ra chiến khu. Năm 1945, ông tập kết ra miền Bắc, rồi mất tại Quảng Trị năm 1956, lúc mới 30 tuổi [2].

Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông phần lớn được in trong năm 1949 tại Sài Gòn, với số lượng phát hành chiếm kỷ lục trong số ấn phẩm thời đó, gồm:
*Truyện dài:
-Cây ná trắc (Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1947)
-Nửa bồ xương khô (2 tập, Nxb. Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949)
-Bạc xỉu lìn (Nxb. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)

*Tập truyện ngắn:
 -Sông máu (Nxb. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)
 -Đầm Ô Rô (Nxb. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)
 -Bên kia sông (Nxb. Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949, 1949)
 -Ngũ Tử Tư (Nxb. Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949)

Ngoài ra, ông còn sáng tác thơ, nổi bật có bài "Chiến sĩ hành", "Tha La xóm đạo",...

Nhìn chung, các tác phẩm trên đều là những bức tranh bi thiết nhưng hào hùng của người dân Nam Bộ, trên những chặn đường lịch sử chống Pháp gay go. Vì vậy, chúng có giá trị tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng Pháp ở Nam Bộ. Nhưng, dường như nhiều người chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ "Tha La xóm đạo".

II. Bài thơ Tha La xóm đạo:
Vũ Anh Khanh viết bài thơ Tha La xóm đạo vào năm 1950, sau ngày ông đến thăm Tha La. Đây là một xứ đạo Thiên Chúa đã có từ lâu đời, nay thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Bài thơ là một câu chuyện kể về xóm đạo Tha La trong thời khói lửa chiến tranh. Lời thơ dung dị, gần gũi. Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình, đã lay động tâm hồn của biết bao người. "Tha La xóm đạo" đã được nhạc sĩ Dũng Chinh, cũng là người Phan Thiết, phổ nhạc vào năm 1964. Sau đó một năm, nhạc sĩ Sơn Thảo phổ thành bài hát mang tên "Hận Tha La", và cũng trong năm này nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành ca khúc mang tên "Vĩnh Biệt Tha La". Ngoài ra, soạn giả cải lương Viễn Châu cũng đã phỏng theo ý tưởng của Vũ Anh Khanh để viết ca khúc tân cổ giao duyên "Tha La xóm đạo". Dưới đây là nguyên văn bài thơ:

Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?
Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".
Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
Ờ... ơ... hơ... Có một đám chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha!
Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu,
Rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
Ờ... ơ... hơ... Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát;
Rung làm lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh hênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Nguồn tham khảo chính:
-Nguyễn Q. Thắng, mục từ "Vũ Anh Khanh" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Lê Ngọc Trác, "Thi sĩ Vũ Anh Khanh - Một bài thơ số mãi với đời", trên website Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.

Chú thích:
[1] Ghi theo Lê Ngọc Trác. Nguyễn Q. Thắng (tr. 2017) ghi tên thật của Vũ Anh Khanh là Nguyễn Năm.
[2] Nhà văn Xuân Vũ trong bài viết “Người chết không mồ”, đăng trên Văn Hóa Việt Nam số 14 năm 2001, cho biết Vũ Anh Khanh nhân kỳ nghỉ phép, đã sửa thông hành từ Vĩnh Phúc thành Vĩnh Linh, để vào Quảng Trị vượt biên vào Nam. Ông bơi qua đoạn sông Bến Hải, phía trên thượng nguồn cầu Hiền Lương chừng vài cây số, thì bị bộ đội biên phòng bờ Bắc bắn chết bằng tên tẩm thuốc độc để không bị ai phát giác. Xác của người bạc mệnh được kéo lên vùi dập đâu đó trong khu phi quân sự. Ông Võ Hồng Cương, Cục phó Cục Tuyên Huấn quân đội nhân dân Việt Nam, cũng kể tương tự [http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/read-poems-on-xmas-eve-12242011131439.html].

Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2012

Nhà quân sự kiệt xuất đời Trần: Trần Hưng Đạo


Nhà quân sự kiệt xuất đời Trần: Trần Hưng Đạo

Tượng đài Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng, Sài Gòn.

Trần Hưng Đạo (1232? - 1300), còn được gọi là Hưng Đạo Vương, tên thật là Trần Quốc Tuấn; là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, và là nhà văn Việt Nam thời Trần.

1. Thân thế:
Cha mẹ Trần Hưng Đạo là An Sinh vương Trần Liễu và một bà tôn thất nhà Trần tên là Nguyệt. Ông gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột, và Công chúa Thụy Bà (chị ruột của vua Trần Thái Tông, và là cô ruột Trần Quốc Tuấn) là mẹ nuôi. Nguyên quán ông ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định).

Ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, và nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy, mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ.

2. Ba lần chống quân Nguyên Mông:
Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào tháng 9 (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1257), ông giữ quyền “tiết chế” để chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh (cho) tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của (Trần) Quốc Tuấn" [tập 2, tr. 77].

Sau khi đánh lui được quân Nguyên Mông lần đầu (1258), tháng 10 (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai (1285), Trần Hưng Đạo được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực lượng quân sự. Tháng 8 (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu.

Đầu năm 1285, tức 27 năm sau, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã" (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân. Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. vua Trần Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng". Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,...quân dân nhà Trần đã đánh tan đội quân Nguyên Mông, giải phóng đất nước.

Cuối năm 1287, nhà Nguyên xâm lược lần thứ ba. Trần Nhân Tông hỏi: "Năm nay đánh giặc thế nào?". Trần Hưng Đạo đáp: "Năm nay đánh dễ". Khi đoàn thuyền lương đối phương bị tiêu diệt ở Vân Đồn, chủ tướng là Thái tử Thoát Hoan phải rút lui, ông bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng 4 (âm lịch) năm Mậu Tý (1288). Thoát Hoan nghe tin đội quân thủy đã vỡ tan rồi, liền dẫn tàn quân tháo chạy về nước, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến "quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần".

3. Lui về Vạn Kiếp rồi qua đời:
Tháng 4 (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1289), luận công đánh đuổi quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo được phong tước Hưng Đạo đại vương. Sau đó, ông lui về ở Vạn Kiếp, là nơi ông được phong ấp (nay thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Nhân dân lúc bấy giờ kính trọng ông, lập đền thờ sống (sinh từ) ông ở Vạn Kiếp. Tại đền có bài văn bia của vua Trần Thánh Tông, ví ông với Thượng phụ (tức Khương Tử Nha).

Tháng 6 (âm lịch) năm Canh Tý (1300), ông lâm bệnh, được vua Trần Anh Tông tới thăm và hỏi về kế sách chống ngăn “giặc phương Bắc”. Chữa mãi không khỏi bệnh, ông mất ngày 20 tháng 8 năm ấy (5 tháng 9 năm 1300), thọ khoảng 70 tuổi.

Khi sắp mất, Trần Hưng Đạo dặn các con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục" [Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, tr. 78. Xem chú thích 1]. Vì vậy, cho đến nay, các nhà khảo cổ, các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được mộ phần của Trần Hưng Đạo ở đâu.

Nghe tin Trần Hưng Đạo mất, triều đình nhà Trần phong tặng ông là "Thái sư Thượng Phụ Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương". Ông được nhân dân cả nước tôn vinh là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là Đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải Dương). Đây là nơi ông lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.

4. Tác phẩm:
Tác phẩm của Trần Hưng Đạo hiện còn:
-Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Bài văn hịch hiểu dụ các tỳ tướng, quen gọi là Hịch tướng sĩ).
-Binh gia diệu lý yếu lược (Tóm lược chỗ cốt yếu trong nguyên lý kỳ diệu của nhà binh, còn gọi là Binh thư yếu lược)
-Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp) nhưng văn bản đã thất lạc, chỉ còn lại bài Tựa của tướng Trần Khánh Dư đề ở đầu sách, được Đại Việt sử ký toàn thư (quyển VI) ghi lại.

4. Sử liệu liên quan:
4.1 Vì nước, quên thù nhà:
Năm Đinh Dậu (1237), Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu (cha Trần Hưng Đạo) phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho em ruột là vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) dù bà này đã có thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng giáng Lý Chiêu Hoàng (đang là Hoàng hậu) xuống làm Công chúa. Phẫn uất, Trẫn Liễu họp quân làm loạn. Trần Thái Tông chán nản bỏ đi lên Yên Tử. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Trần Liễu. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo). Lúc sắp mất, ông cầm tay Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, Trần Quốc Tuấn đem lời cha trăng trối để dò ý hai thuộc tướng thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người thuộc hạ ấy can rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu"...Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.

Một hôm Trần Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ vương: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào? Hưng Vũ vương thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!". Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm ông đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ". Trần Quốc Tuấn rút gươm kể tội: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha. Sau đó, ông dặn Hưng Vũ vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng" [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 77-78].

Năm Ất Dậu (1285), thế quân Nguyên Mông bức bách, hai vua Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (mũi biển thuộc châu Vạn Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa quân xâm lược. Sách Đại Việt sử ký toàn thư kể: "Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế" [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 52].

4.2 Không tham chức, biết gạt bỏ hiềm khích riêng:
Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương bắc đến. Trần Thái Tông gọi Trần Hưng Đạo tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".Trần Hưng Đạo thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn."

Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 70]

Sử cũ cũng kể rằng bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn (là con trai của Trần Quốc Tuấn, lại có công đánh giặc) được lấy Công chúa Thiên Thụy, thế nhưng tướng Trần Khánh Dư lại thông dâm với Thiên Thụy, khiến nhà vua phải xuống chiếu trách phạt và đuổi Khánh Dư về Chí Linh vì "sợ phật ý Quốc Tuấn". Vậy mà khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã gạt bỏ hiềm riêng, tin cậy "giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư" khi ông này được phục chức. Ngoài ra, khi soạn xong Vạn Kiếp tông bí truyền thư, thì Trần Khánh Dư cũng là người được ông chọn để viết bài Tựa cho sách [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 46, 58 và 82.].

4.3 Khéo tiến cử người tài giỏi, kính cẩn giữ tiết làm tôi:
Miếu thờ Hưng Đạo Vương tại thành phố Hồ Chí MinhTrần Hưng Đạo khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự.

Vì có công lao lớn nên nhà vua gia phong ông là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước Việt, ông lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi...[Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), tr. 78-79]

4.4 Bị chọc vào đầu đến chảy máu, sắc mặt vẫn không thay đổi:
Đầu năm Tân Tỵ (1281), vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt lại sai Sài Xuân đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Sài Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu...Vua (Trần Nhân Tông) sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông"...[Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2) tr. 44]

4.5 Lời tâm huyết trước khi mất:
Tháng 6 (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Ông trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy" [Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2) tr. 76-77].

5. Vợ, con:
Trần Hưng Đạo cưới Công chúa Thiên Thành làm vợ. Bà là con gái út của Trần Thừa, tức cũng là cô ruột của Trần Hưng Đạo [2]. Sau, bà được phong tước là Nguyên Từ quốc mẫu, và mất vào tháng 9 (âm lịch) năm Mậu Tý (1288). Bà sinh hạ cả tất cả 5 người con, gồm 1 gái và 4 trai:

-Một gái đầu lòng tên là Trinh, thường gọi là Trinh Công chúa, sau trở thành vợ của vua Trần Nhân Tông, tức Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu, rồi sinh ra con là vua Trần Anh Tông sau này.
Bốn trai (không rõ thứ bậc), đều là võ tướng có tài, từng theo cha đánh đuổi quân Nguyên Mông, đó là:

-Trần Quốc Nghiễn, tước Hưng Vũ vương: Ông cưới Công chúa Thiên Thụy, trở thành Phò mã của vua Trần Thánh Tông. Sau khi đánh đuổi quân Nguyên Mông, tháng 4 (âm lịch) năm 1289, ông được phong làm Khai Quốc công.
-Trần Quốc Hiện, tước Hưng Trí vương: Khi xét công đánh đuổi, ông không được thăng trật, vì “đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà lại còn đón đánh chúng”. Ông cũng là người có công tổ chức khẩn hoang nhiều vùng đất hoang vu của khu vực tỉnh Hải Dương ngày nay.
-Trần Quốc Tảng, tước Hưng Nhượng vương: Khi xét công, ông được phong làm Tiết độ sứ. Ông có con gái gả cho vua Trần Anh Tông, tức Thuận Thánh Hoàng hậu..
-Trần Quốc Uất, tước Minh Hiến vương: Chưa có thông tin, chỉ biết vào cuối năm 1284, ông cùng với các anh em "đốc suất 20 vạn quân các xứ đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của cha". Tuy nhiên, sách Đại Việt sử ký toàn thư không nhắc đến tên ông khi xét công đánh đuổi quân xâm lược.
Ngoài ra, Trần Hưng Đạo còn có một người con gái nuôi, đó là Nguyên Công chúa, sau là vợ của danh tướng Phạm Ngũ Lão [3].

*
Dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, quân đội nhà Trần đã vượt qua vô vàn khó khăn và hiểm nguy, ba lần đánh tan hàng vạn quân Nguyên Mông xâm lược, giành thắng lợi lẫy lừng, “tiếng vang đến phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên”. Công lao to lớn này đã đưa ông lên hàng “thiên tài quân sự có tầm chiến lược, và là một anh hùng dân tộc bậc nhất của nhà Trần”.
Là một Tiết chế đầy tài năng, khi "dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái", đặc biệt là có một có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên Trần Hưng Đạo đã đề ra một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long, để bảo toàn lực lượng. Kế hoạch "thanh dã" (vườn không nhà trống) và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa “hương binh” và quân triều đình, những trận tập kích và phục kích có ý nghĩa quyết định đối cả chiến dịch như ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn, và nhất là ở Bạch Đằng...đã làm cho tên tuổi ông bất tử.

Có thể nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo, là một tấm lòng tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu thương dân. Cho nên trước khi mất, ông vẫn còn dặn vua Trần Anh Tông rằng: "Phải nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc" cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà [theo GS. Nguyễn Huệ Chi].

Vì thế, các cây đại bút thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu, v.v...đều có những sáng tác viết về Trần Hưng Đạo. Các nhà khoa bảng sau đó, như Đặng Minh Khiêm (thời Lê), Cao Bá Quát (thời Nguyễn),v.v...cũng thường dành cho ông những lời đặc biệt kính trọng. Dưới đây giới thiệu hai bài:

Đặng Minh Khiêm (? -1585) viết:

Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung,
Mậu kiến Trùng Hưng đệ nhất công.
Một hậu uy do tồi Bắc lỗ,
Ỷ thiên trường kiến da minh phong.
Dịch nghĩa:
Sinh vào lúc gia đình có sự hiềm khích nhưng vẫn thề giữ đức trung thành,
Giúp nên cơ nghiệp Trùng Hưng công lao hàng bậc nhất.
Dẫu đã mất mà uy phong còn bẻ gãy giặc Bắc.
Thanh kiếm dài tựa ngoài trời thuở xưa, đêm đêm thường rít lên như gió.

Cao Bá Quát (1809-1855) viết:

Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào,
Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao.
Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ,
Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao.
Công mãn Nam thiên thùy trúc bạch,
Uy dư Đông Hải thiếp ba đào.
Phần Dương khánh diễn hồn dư sự,
Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao.
Dịch nghĩa:
Là đấng anh hào bậc nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên,
Dấn mình vì nước chẳng nề khó nhọc.
Nâng đỡ xe mặt trời lòng những hăng hái,
Quét sạch bụi ngoài cõi, mưu lược thật cao siêu.
Công cao đầy cả trời Nam, lưu truyền sử sách,
Uy linh khắp biển Đông, sóng cả yên lặng.
Ân trạch ở Phần Dương có sánh cũng bằng thừa.
Mãi khiến giặc Hồ phải biết tay tài giỏi .


Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1]Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2, tr. 21). Triều Trần có lệ cho người trong họ lấy nhau nên mới có cuộc hôn nhân lạ lùng này (ý kiến của GS. Nguyễn Khắc Thuần, tr. 98).
[2] Tên và tước phong các người con của Hưng Đạo Vương chép theo Đại Việt sử ký toàn thư (tr. 49). Danh tướng Việt Nam (tập 1, tr. 98-99) chép khác.
Sách tham khảo chính:
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch, tập 2). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1985.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
-Nguyễn Huệ Chi, mục từ “Trần Quốc Tuấn” trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Nguyển Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam (tập 1). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển. Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn, 1966.
-Mục từ "Trần Hưng Đạo" trong Từ điển bách khoa Việt Nam.