Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Nữ sĩ thời Lê: Đoàn Thị Điểm

1. Tiểu sử:
Đoàn Thị Điểm [1] (1705-1748), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ; là nữ sĩ Việt Nam thời Lê.
Bà là người làng Giai Phạm [2], huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).

Theo gia phả họ Đoàn là “Đoàn thị thực lục”, thì tổ tiên của bà vốn họ Lê, đến đời cha bà là Đoàn Doãn Nghi (1678-1729), mới đổi ra họ Đoàn. Ông Doãn Nghi thi đỗ Hương cống (Cử nhân) đời Lê, thi Hội không đỗ, nên ở dạy học và bốc thuốc. Ông cưới vợ (họ Vũ, không rõ tên), sinh được hai con: con cả là Đoàn Doãn Luân (1700 - ?) [3] và con thứ là Đoàn Thị Điểm.

Lúc trẻ, bà có tiếng thông minh, đẹp người, đẹp nết, chăm học, có tài văn và giỏi cả việc nữ công. Cho nên năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi để sau dâng lên chúa Trịnh, nhưng bà không chịu.
Suốt thời gian từ lúc ấu thơ đến tuổi trưởng thành, bà thường sống với cha và anh ở nơi cha dạy học là làng Lạc Viên (huyện An Dương, tỉnh Kiến An; nay thuộc thành phố Hải Phòng).

Năm bà 25 tuổi (1729), cha mất, bà cùng với gia đình của anh dời đến ngụ ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (nay là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên).
Chẳng bao lâu sau anh mất (không rõ năm), bỏ lại một đàn con nhỏ, một mình Đoàn Thị Điểm phải vừa làm thuốc, vừa dạy học để có tiền nuôi mẹ và giúp đỡ chị dâu nuôi các cháu.

Theo Từ điển nhân vật lịch Việt Nam, khi ấy ở Sài Trang thuộc huyện Đường Hào có một người con gái được tiến cung, và bà đã được vời vào cung làm Giáo thụ để dạy người con gái ấy. Đến năm 1739, nhân trong nước có loạn, bà xin từ chức về ngụ ở xã Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, ngoại thành Hà Nội) tiếp tục làm nghề dạy học.

Bấy giờ, có nhiều đến hỏi, trong đó có cả những người quyền quý, nhưng bà đều từ chối. Mãi đến năm 37 tuổi (1742), bà mới nhận lời lấy Nguyễn Kiều (1695?-1792?), một Tiến sĩ nổi tiếng hay chữ đã góa vợ. Nhưng vừa cưới xong, Nguyễn Kiều lại phải đi sứ sang Trung Quốc ba năm. Theo Từ điển văn học (bộ mới), có lẽ trong thời gian xa chồng này bà đã dịch ra quốc âm tập thơ Chinh phụ ngâm của danh sĩ Đặng Trần Côn.

Năm 1745, Nguyễn Kiều về nước. Năm 1748, ông được cử làm Tham thị (có sách ghi làm làm "Đốc đồng") trấn Nghệ An. Đoàn Thị Điểm cùng đi với chồng, nhưng trên đường đi, bà bị cảm nặng, chạy chữa không khỏi, cuối cùng mất ở Nghệ An vào ngày 11 tháng 9 (âm lịch) năm đó (Mậu Thìn, 1748), lúc 43 tuổi.

Thương cảm người bạn đời vắn số, Nguyễn Kiều viết bài văn tế, hết lời ca tụng văn tài và đức hạnh của bà. Trong đó có câu:
Đào chưa tươi đã khô
Quế đang thơm đã rũ
Rừng sâu bể rộng nàng hỡi đi đâu
Ngọc nát châu chìm lòng tôi quặn nhớ
...

2. Sự nghiệp văn chương:
Theo Đoàn thị thực lục, lúc sinh thời bà thường xướng họa thơ với cha, với anh và với chồng. Song cho đến nay, về sáng tác, bà chỉ còn có tập truyện chữ Hán tên là Truyền kỳ tân phả (khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), và một ít thơ văn (gồm chữ Hán, chữ Nôm) trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây, nhưng trong đó có không ít sai lẫn .
Về bản dịch Chinh phụ ngâm (Chinh phụ ngâm khúc diễn âm) của bà, hiện nay vẫn chưa khẳng định là bản nào. Nhiều người cho đó là bản đang lưu hành rộng rãi, nhưng có ý kiến nói bản đó là của Phan Huy Ích[14], còn bản của nữ sĩ họ Đoàn là một bản khác. Song theo GS. Nguyễn Lộc, thì "một điều có thể khẳng định được là bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm là bản dịch đầu tiên của tác phẩm này"[4].

3. Giai thoại:
Có lần Đoàn Doãn Luân thấy Đoàn Thị Điểm đang ngồi soi gương, bèn ra một vế rằng:
Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm (nghĩa là “soi gương vẽ mày, một nét hóa thành hai nét”; song chữ điểm còn là tên bà Điểm, thành ra lại có nghĩa nữa là “một bà Điểm hóa hai bà Điểm”).
Lúc ấy, ông Luân đang ngồi trên cầu ao rửa tay, bà liền đối rằng:
Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân (nghĩa là “ra ao ngắm trăng, một vầng chuyển hóa hai vầng; song chữ luân còn là tên của ông Luân, thành ra lại có nghĩa nữa là “một ông Luân hóa hai ông Luân) [5]
Ngoài ra, trong dân gian còn truyền tụng một số chuyện như “Da trắng vỗ bì bạch" (ra vế đối cho Cống Quỳnh đối lại), "Hổ thật thành hổ giấy" (ra vế đối cho "Tràng An tứ hổ" đối lại), "Trượng phu Bắc quốc đều từ đó mà ra" (đáp lại câu đối của sứ thần Trung Quốc), v.v...

Chú thích:
[1] Vì Đoàn Thị Điểm lấy chồng họ Nguyễn, nên có sách chép là Nguyễn Thị Điểm (chú thích của GS. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968, tr. 303). Theo Thái Vũ (tr. 72) thì bà còn có biệt hiệu là Bang Tang (tức tự ví như nữ sĩ Ban Chiêu thời Đông Hán, Trung Quốc).
[2] Theo nhà văn Trúc Khê, làng vốn có tên là "Hiến Phạm", sau vì kiêng chữ "hiến" là miếu hiệu của vua Thiệu Trị (Hiến Tổ) nên mới đổi ra là "Khải Phạm", song người ta cứ gọi lầm là "Giai Phạm" (tr. 526).
[3] Đoàn Doãn Luân có sách chép là Đoàn Doãn Luân, hoặc Nguyễn Trác Luân; đỗ đầu thi Hương (theo GS. Thanh Lãng [tr. 512]. Thái Vũ ghi ông đỗ đầu xứ [tr. 72]. Từ điển nhân vật lịch Việt Nam [tr. 173] ghi ông đỗ Hoàng giáp năm 1719 lúc 19 tuổi, có lẽ là nhầm. Mặc dù đỗ cao, nhưng ông không ra làm quan chỉ ở nhà dạy học. Năm 1729, cha ông mất, ít lâu sau ông cũng lâm bệnh mất..
[4] Theo những tài liệu mới phát hiện gần đây, có xu hướng nghiên về Phan Huy Ích (Nguyễn Lộc, Từ điển văn học, bộ mới, tr. 260).
[5] Kể theo Trúc Khê.

Sách tham khảo:
-Nhiều người soạn, Từ điển bách khoa Việt Nam (Tập I), mục từ Đoàn Thị Điểm”. Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1995.
-Trần Văn Giáp, tiểu truyện “Đoàn Thị Điểm” in trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2003.
-Nguyễn Lộc, mục từ Đoàn Thị Điểm và “Chinh phụ ngâm” trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá thế, Từ điển nhân vật lịch Việt Nam, mục từ “Đoàn Thị Điểm” và “Đoàn Doãn Luân”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Nguyễn Thạch Giang, Văn học thế kỷ XVIII, mục “Đoàn Thị Điểm”. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2004.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (Quyển I, mục từ "Đoàn Thị Điểm"), Sài Gòn, 1966.
-Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển 2, mục "Đoàn Thị Điểm"). Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1963.
-Thanh Lãng, Bản lược đồ văn học Việt Nam (Quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình Bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
-Trúc Khê, truyện “Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm” trong Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2003.
-Thái Vũ, truyện “Đoàn Thị Điểm” trong Chuyện hay nhớ mãi. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1987.

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

Giới thiệu bộ tiểu thuyết Kim Bình Mai



Kim Bình Mai (金瓶梅),tên đầy đủ là Kim Bình Mai từ thoại (Truyện kể có xen thi từ về Kim Bình Mai);là bộ tiểu thuyết dài gồm 100 hồi [1] của Trung Quốc.

Đây là "bộ truyện dài đầu tiên do mà cốt truyện hoàntoàn là hư cấu sáng tạo của một cá nhân". Trước đó, các truyện kể đều dựaít nhiều ít nhiều vào sử sách hoặc truyện kể dân gian, và đều là sự chắp nốicông công sức của nhiều người.
Tên truyện do tên ba nhân vật nữ là Phan KimLiên, Lý Bình Nhi và Bàng Xuân Mai mà thành.
Theo một số nhà nghiên cứu văn học, thì tác giả là một ngườiở Sơn Đông không rõ họ tên, có bút hiệu là Tiếu Tiếu Sinh (có nghĩa là"Ông thầy cười") [2].

Có thể nói trong các tiểu thuyết viết về "nhân tình thế thái" (nói gọn là "thế tình", tức "tình đời") ở TrungQuốc, thì đây là truyện có tiếng nhất, đã khiến cho nhiều người bàn luận.

1. Vài nét về bộ truyện:
Theo bài tựa của Hân Hân Tử ở trong sách “Kim Bình Mai từ thoại”, thì tác giả là Lan Lăng Tiếu Tiếu sinh (có nghĩa là “Ông thầy cười” ở Lan Lăng) hay nói gọn là Tiếu Tiếu Sinh. Song đây chỉ là bút hiệu, còn tên thật của tác giả là gì thì có nhiều lời đồn đoán, như đó có thể là Hân Hân Tử, là Vương Thế Trinh, hoặc là: Lý Khai Tiên, Triệu Nam Tinh, Tiết Ứng Kỳ,...nhưng tất cả đều không đủ chứng cứ để chắc chắn.
Vì vậy, trong cuốn Vạn Lịch dã hoạch biên, Thẩm Đức Phù chỉnói tác giả là một “đại danh sĩ” thời Gia Tĩnh (niên hiệu vua Minh Thế Tông từ1522 đến 1566). Ý kiến này có thể xác đáng, vì thời gian sáng tác và thời giansống của tác giả khá ăn khớp nhau.
Tuy chưa thể quả quyết, nhưng qua tác phẩm có thể thấy, tácgiả dùng tiếng địa phương Sơn Đông rất thành thạo, và Lan Lăng chính là tên cũcủa huyện Dịch thuộc tỉnh Sơn Đông; vậy rất có thể tác giả là người Sơn Đông,và từng sống ở Bắc Kinh, vì trong tác phẩm hầu như đều lấy nơi đây làm bối cảnh. Kim Bình Mai có lẽ viết xong vào khoảng từ năm Long Khánh thứ2 (niên hiệu của vua Minh Mục Tông) đến năm Vạn Lịch thứ 30 (niên hiệu của vuaMinh Thần Tông), tức từ 1568 đến 1602, nhưng phải 8 năm sau (1610) tác phẩm mớiđược khắc in, vì bị ghép vào loại "dâm thư".
Theo nhà văn Lỗ Tấn, ban đầu chỉ có bản chép tay. Sau, Viên Hoằng Đạo có thấy được vài hồi, bèn đem ghép với Thủy Hử truyện, và gọi là Ngoạiđiển. Đến năm 1610, tác phẩm mới được khắc in ở Ngộ Trung. Nhưng vì hồi 53 đếnhồi 57 đã khuyết mất, nên có người (không rõ là ai) đã phải viết bổ sung . Những bản Kim Bình Mai hiện còn chia làm hai loại:
-Một là Kim Bình Mai từ thoại. Đầu quyển có bài tựa của LongChâu Khánh, là người đất Đông Ngô, viết năm Vạn Lịch thứ 15 (1617) đời nhàMinh.
-Hai là Nguyên bản Kim Bình Mai, viết vào khoảng những nămThiên Khải đời nhà Minh (Niên hiệu của Minh Hy Tông, từ 1621 đến 1257). Sự khác nhau chủ yếu của chúng thể hiện ở chỗ nửa đầu của hồithứ nhất, hồi thứ 53 và hồi thứ 54 là hoàn toàn khác nhau về lối hành văn, thídụ như ở loại 1 phần lớn là từ, thì ở loại 2 phần lớn lại là thơ....

2. Nội dung sơ lược:
Tác phẩm Kim Bình Mai vốn được phát triển từ một số tình tiết trong tác phẩm Thủy Hử (từ hồi 23 đến hồi 26) của Thi Nại Am.
Nội dung truyện chủ yếu mô tả cuộc đời nhiều tội ác và trụy lạc của nhân vật Tây Môn Khánh, hiệu: Tứ Truyền, là người Thanh Hà, vốn là chủmột hiệu thuốc nhưng không ưa đọc sách, chỉ giỏi chơi bời phóng đãng, lại kết bạnvới một bọn du côn đàng điếm.
Ông này đã có một vợ chính và ba người thiếp, nhưng thấy Phan Kim Liên có nhan sắc, ông liền lập mưu giết chết chồng nàng là Võ Đại(trong Thủy Hử truyện ghi là Võ Đại Lang), rồi cưới nàng làm thiếp. Võ Tòng (emtrai Võ Đại) báo thù, giết lầm người khác nên Tây Môn Khánh vẫn không can gì...
Sau đó, Tây Môn Khánh còn mua Lý Bình Nhi về làm vợ lẽ, và gian dâm vớingười hầu gái của Phan Kim Liên là Bàng Xuân Mai. Nhờ thông đồng với quan lại, Tây Môn Khánh trở thành một cườnghào. Rồi nhờ nhận Thái Kinh (một trọng thần) làm cha nuôi, ông được bổ làm mộtchức quan coi việc xử án trong huyện, nên tha hồ đổi trắng thay đen để ức hiếpdân lành. Có tiền, có thế, ông ta lại càng ăn chơi phóng đãng, hoang dâm vô độ,để rồi cuối cùng lâm bạo bệnh mà chết (hồi thứ 80).

Tiếp theo, Kim Liên và Xuân Mai (lúc này không còn Lý Bình Nhivì đã ốm chết ở hồi 63) lại thông dâm với con rể của Môn Khánh là Trần Kinh Tế.Việc bị phát giác, cả hai đều bị đuổi khỏi nhà. Võ Tòng tình cờ gặp Kim Liên ởnhà Vương bà bèn giết chết (hồi 87).
Phần Xuân Mai thì bán cho viên quan họ Chu(Chu Tú), được ông này yêu lại có con nên được làm vợ cả. Gặp lại Trần Kinh Tế,Xuân Mai giả gọi là em, tìm cách đưa vào nhà để thông dâm như cũ.
Thế rồi quanhọ Chu đi đánh Tống Giang có công, được thăng quan, Kinh Tế cũng được thăng làmtham mưu, vì có dự phần. Nhưng đến hồi 99, thì Kinh Tế bị đâm chết vì kết oán vớiTrương Thắng. Đến khi quân Kim tràn vào lấn cướp, Chu Tú chết trận, Xuân Maisau đó cũng chết đột ngột vì dâm dục quá độ với người con chồng là Chu Nghĩa (hồi100).

Gặp cảnh nước nhà loạn lạc, vợ cả của Tây Môn Khánh là NguyệtNương dắt đứa con trai độc nhất của họ Tây Môn là Hiếu Ca trốn chạy. Dọc đường,gặp một nhà sư cho biết Hiếu Ca chính là kiếp sau của Tây Môn Khánh, phải xuấtgia đầu Phật mới khỏi nạn. Nghe lời, Nguyệt Nương bèn gửi con vào cửa Phật, sautrở thành nhà sư Minh Ngộ.

3. Một vài đánh giá:
Trong Kim Bình Mai, hiện thực được phản ánh là bộ mặt thật củaxã hội phong kiến thời Minh, từ sau Chính Đức (1521) đến giữa Vạn Lịch(1570-1620). Tác giả muốn thông qua nhân vật điển hình là Tây Môn Khánh đểvạch trần sự xấu xa bỉ ổi của xã hội lúc bấy giờ một cách khách quan, cụ thể vàchi tiết.
Trong cuộc hội thảo quốc gia về bộ truyện này ở Trung Quốc năm 1987,đã khẳng định giá trị phê phán và hiện thực của tác phẩm và vị trí quan trọng củanó trong quá trình phát triển chủ nghĩa hiện thực. Vì thế, nó đã được phép pháthành rộng rãi và dựng thành phim. Theo Lời Tựa của một "Danh sĩ đời Minh" (và cũnglà tác giả), viết vào mùa hạ năm Gia Tĩnh thứ 37 (Mậu Ngọ, 1558) đề ở đầu bộtruyện, thì đây là một tác phẩm mà các nhân vật đều tuân theo luật “báo ứng”, cốtđể người đọc "sợ sệt mà tự răn mình, đồng thời tự di dưỡng tâm tính".
Vì thế, theo GS. Lương Duy Thứ, tác giả đã đưa người đọc đến một kết luận rằng:cuộc đời chỉ là sự minh họa cho chân lý nhà Phật "sắc không, không sắc",và rốt cuộc giải pháp cũng chỉ có thể là con đường “Minh ngộ” (có nghĩa hiểu đượcchân lý của sự giác ngộ) mà thôi. Và cũng theo giáo sư, trong lịch sử văn học Trung Quốc"phải đợi đến Kim Bình Mai mới xuất hiện một kiểu nhân vật thoát ly hẳn lịchsử, và có sự đa dạng trong tính cách, không còn ‘trắng đen minh bạch’ như trướckia.
Song, cũng vì hướng nhân vật theo luật 'quả báo', nên tính cách nhân vậtthay đổi có phần gượng ép, thí dụ như Lý Bình Nhi trước kia hung ác hiểm độc,sau lại hiền lành nhu nhược; Phan Kim Liên trước kia kín đáo để ranh ma, sau lạiđứng đắn tử tế"...[tr. 752].

Về mặt nghệ thuật, tác giả đã sáng tạo được một số nhân vậtrất điển hình (Tây Môn Khánh, Phan Kim Liên, Bàng Xuân Mai,...), đồng thời cótài làm cho các tính cách nhân vật khác nhau khá rõ. Một điểm đáng chú ý nữa,đó là người viết đã vượt qua nhiều khuyết điểm của loại chuyện chương hồi khác;có nghĩa là tác giả người “viết chuyện” chứ không phải là người “thuật chuyện”,vì thế những sự việc tiếp diễn đều do nhân vật tự bộc lộ. Riêng phần phong cáchngôn ngữ trong truyện, nhìn chung là trong sáng, dí dỏm và trau chuốt.

4. Giai thoại:
Tương truyền thân phụ của Vương Thế Trinh (một trong số ngườitừng được coi là tác giả của Kim Bình Mai), là Vương Dư bị Nghiêm Tung ám hại.Lúc bấy giờ uy thế của Nghiêm Thế Phồn (con trai độc nhất của Nghiêm Tung) rấtmạnh nên Vương Thế Trinh không làm gìđược. Biết Nghiêm Thế Phồn là người rất thích đọc truyện khiêu dâm, Vương ThếTrinh bèn viết ra bộ Kim Bình Mai rồi tìm cách đưa đến. Ở mỗi góc tờ sách đềucó tẩm thuốc độc, để khi Nghiêm Thế Phồn lấy tay thấm vào môi lật sách thì sẽ bịngộ độc mà chết… Vì thế, mới có người [3] đem câu truyện trên (được gọi là“Khổ hiếu thuyết”) đặt lên đầu bộ truyện Kim Bình Mai. Song theo Nguyễn HuyKhánh, đây chẳng qua là một câu chuyện truyền khẩu không căn cứ. Có thể vì thấychuyện dâm ô quá, sợ mất tiếng Vương Thế Trinh, nên mới bày thêm chuyện"Khổ hiếu thuyết" để biện giải cho họ Vương [tr. 181].

5. Thông tin liên quan:
Kế tục Kim Bình Mai, thời Vạn Lịch (1570-1620) lại có chuyệntên là Ngọc Kiều Lý, nghe nói cũng là do tác giả Tiếu Tiếu Sinh viết, nhưng nayđã thất truyền. Đại để, sách này cũng như sách trước (chỉ Kim Bình Mai), thảy đềuđặt ra chuyện nhân quả báo ứng. Võ Đại kiếp sau hóa làm dâm phu, Tây Môn Khánh thì làm người đàn ông si ngốc, v.v... Ngoài ra còn có Tục Kim Bình mai gồm 64 hồi, do Đinh DiệuCang, người Sơn Đông biên soạn, làm xong khoảng đầu đời Thanh...So với Kim BìnhMai, tuy cũng thuộc loại "nhân tình thế thái", nhưng nội dung cả haibộ đều kém xa.

Bùi Thụy Đào Nguyên,giới thiệu.

Chú thích:
1. Bản dịch Kim Bình Mai (không đề tên người dịch) do nhà xuấtbản Khoa học xã hội (Hà Nội) ấn hành gồm 4 quyển, tổng cộng dài trên 1.900 trang khổ 13cm x 19cm. 2. Như một số tác giả khác, ở đây Tiếu Tiếu Sinh cũng khôngcho biết tên thật, là vì ngày xưa người ta coi trọng thơ, từ, phú hơn là truyện,tiểu thuyết. 3. Theo Lỗ Tấn thì người đó là Trương Thúc Pha, người BànhThành, viết Khổ hiếu thuyết vào đời Khang Hy (tr. 232).

Sách tham khảo:
-Tiếu Tiếu sinh, Kim Bình Mai (trọn bộ 4 tập). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1989.
-Lỗ Tấn, Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc (Lương DuyTâm dịch). Nhà xuất bản Văn hóa, 1996.
-Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốcbiên soạn, Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập 3), Bản dịch do Nxb Giáo dục Việt Nam ấn hành năm1993.
-Lương Duy Thứ, mục từ "Kim Bình Mai" trong Từ điểnvăn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Nguyễn Huy Khánh, Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa.Nhà xuất bản Văn học, 199

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2011

Nguyễn Sĩ Cố

Nguyễn Sĩ Cố (? - 1312) là nhà thơ và là quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.


Theo sách Địa chí Hải Dương, Nguyễn Sĩ Cố sinh khoảng giữa thế kỷ 13 tại làng Bình Lãng, huyện Đa Cẩm; nay là thôn Bình Phiên, xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Song có một số sách đều ghi là "không rõ năm sinh, quê quán và thân thế của ông"[1].


Cũng không rõ Nguyễn Sĩ Cố đã đỗ đạt gì, chỉ biết ông là người nổi tiếng về học vấn uyên bác. Vì thế năm Giáp Tuất (1274), ông được vua Trần Thánh Tông cho vời vào cung trao chức Nội thị học sĩ để dạy Thái tử Trần Khâm, tức vua Trần Nhân Tông sau này.


Đến năm Bính Ngọ (1306), dưới triều Trần Anh Tông, ông được thăng chức Thiên Chương các Học sĩ, trông coi việc giảng ngũ kinh ở gác Thiên Chương, thỉnh thoảng giảng sách cho vua học. Về sau, ông được bổ làm An phủ sứ.


Theo bài thơ "Tụng giá tây chinh yết Uy Hiển Vương từ" của ông còn lưu trong sách Việt điện u linh, thì có lần ông được theo hầu giá nhà vua đi Tây chinh Ai Lao (Lào), nhưng không rõ vào năm nào, và theo hầu vị vua nào, chỉ biết khi ấy ông đang giữ chức Thị độc học sĩ.


Năm Nhâm Tý (1312), Nguyễn Sĩ Cố theo vua Trần Anh Tông đi đánh Chiêm Thành và mất ở dọc đường.


Sau có dịp đến viếng mộ ông, danh sĩ Phạm Sư Mạnh đã có bài "Quá An Phủ Nguyễn Sĩ Cố phần" (Qua mộ An Phủ Nguyễn Sĩ Cố) để tỏ lòng thương tiếc như sau:

Tiêu tiêu thiên mẫu trúc như vân

Vô hạn thương tâm An Phủ thần.

Sơn thự tích thời huề tửu địa,

Thương mang hạ mã chính tà huân.

Bản dịch:

Mây giăng ngàn dặm trúc xanh xanh,

An Phủ phần trông vướng mối tình.

Ngày chốn ngày xưa vui vẻ lắm,

Bóng khuâng xuống ngựa bóng chênh chênh.


Hiện ở quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Nguyễn Sĩ Cố.


Nguyễn Sĩ Cố có tài làm thơ phú bằng chữ Nôm, nhưng nay đã thất truyền. Trong Toàn Việt thi lục chỉ có 2 bài thơ chữ Hán là: “Tụng giá tây chinh yết Uy Hiển Vương từ” (Theo vua đi đánh phía Tây, yết đền Uy Hiển Vương)[4] và “Tụng giá tây chinh yết Tản Viên từ” (Theo vua đi đánh phía Tây, yết đền Tản Viên) [5].

Trước đây trong Tứ dân văn uyển, Nguyễn Can Mộng có đăng bài thơ "Vịnh Tần Thủy Hoàng", và ghi là của Nguyễn Sĩ Cố. Nhưng theo TS. Nguyễn Thị Hảo thì “ngôn từ và ý tứ của bài thơ lại mới mẻ, không cho phép tin đó là ngôn ngữ đời Trần” (Từ điển văn học, bộ mới), tr. 1182).


Với số lượng thơ ít ỏi như vậy, chưa đủ để hiểu phong cách cùng những đặc điểm nghệ thuật của thơ Nguyễn Sĩ Cố. Song, theo một số nhà nghiên cứu thì đây là hai bài thơ trào phúng ra đời tương đối sớm, và có thể xem ông là người đặt cơ sở cho dòng thi ca trào phúng trong lịch sử văn học viết của Việt Nam.


Thơ Nguyễn Sĩ Cố:

Cả hai bài thơ chữ Hán dưới đây đều có ý vị hài hước, trêu chọc và nghi ngờ cả thần linh. Người đời khen tác giả (Nguyễn Sĩ Cố) có tài khôi hài, ví ông với Đông Phương Sóc (154-93 tr. CN) đời nhà Hán (Trung Quốc).


1. Tụng giá tây chinh yết Uy Hiển Vương từ

Quy ngư phù ấn quải yêu gian,

Tư sự hy cầu phó tướng quan.

Bạc liệt thư sinh vô vọng xứ,

Chỉ lai từ hạ khất bình an.

Dịch nghĩa:

Phò giá vua chinh phạt phía Tây, bái yết đền thờ Uy Hiển Vương

Lưng đeo bùa ấn hình cá, hình rùa,

Việc cầu khấn này phó thác cho quan và tướng.

Kẻ học trò yếu đuối không có ước vọng gì,

Dưới đền chỉ xin khấn chữ bình an.


2. Tụng giá tây chinh yết Tản Viên từ

Sơn tự thiên cao thần nhạc linh,

Tâm hương tài khấu dĩ văn thanh.

Mỵ Nương diệc cụ uy nghi giả,

Thả vị thư sinh bảo thử hành.

Dịch nghĩa:

Phò giá vua chinh phạt phía Tây, bái yết đền thờ Tản Viên

Núi cao như trời, thần núi linh thiêng,

Một nén hương lòng vừa cúi đầu khấn đã nghe tiếng vọng.

Mỵ Nương nếu là vị thần đầy đủ uy nghi,

Thì hãy phù hộ kẻ thư sinh trong chuyến đi này.



Bùi Thụy Đào Nguyên giới thiệu

Chú thích:

[1] Từ điển văn học (bộ mới), Từ điển bách khoa Việt Nam và Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam đều ghi là không rõ như trên.

[2] Theo Việt điện u linh, truyện: "Trung Dục Uy Hiển vương", tức Thần làng Bạch Hạc. Bạch Hạc ở chỗ sông Lô đổ vào sông Hồng; nay thuộc là phường Bạch Hạc thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. tỉnh Vĩnh Phú (theo Sổ tay địa danh Việt Nam. NXB Giáo dục, 2008, tr. 18). Đừng lầm với Ngã Ba Hạc ở gần đó.

[3] Tản Viên, còn gọi là Sơn Tinh, là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên), một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt.


Sách tham khảo:

-Nhiều người soạn, Từ điển bách khoa Việt Nam, mục từ “Nguyễn Sĩ Cố” (bản điện tử).

-Đặng Thị Hảo, mục từ "Nguyễn Sĩ Cố" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.

-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.

-Sách Địa chí Hải Dương, bản điện tử.

-Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Ngọc Hồ dịch. Nhà xuất bản Cửu Long, 1982.



Thứ Hai, 5 tháng 9, 2011

Truyện Tôn Thất Hiệp


Truyện Tôn Thất Hiệp


Tôn Thất Hiệp (ảnh thờ)
Sau trận đánh nhau với quân Trịnh vào năm 1673, ông hoàng Tôn Thất Hiệp từ bỏ gia đình, quyết chí xuất gia, tuy mới 20 tuổi.

Tôn Thất Hiệp (chữ Hán: 尊室協, 1653-1675), tên thật là Nguyễn Phúc Thuần hay Nguyễn Phúc Chiểu, là con thứ tư của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, sau vì kỵ húy nên đổi là Hiệp. Mẹ là bà phi Châu Thị Viên. Chưa biết ông sinh tại đâu, chỉ biết khi vừa trai tráng, ông được cử giữ chức Chưởng cơ tước Hiệp Đức hầu, nên còn được người đời gọi là công tử Hiệp Đức.

Sau khi đánh dẹp được nhà Mạc ở Cao Bằng (1667), tháng 6 dương lịch năm 1672, chúa Trịnh Tạc cử con là Trịnh Căn làm Nguyên súy cai quản thủy quân và Lê Thời Hiến (hay Lê Hiến) làm Thống suất bộ binh, đem 10 vạn quân (nhưng phao tin là 18 vạn hay hơn nữa) vào đánh chúa Nguyễn. Ngoài ra, chúa Trịnh Tạc còn hộ giá vua Lê Gia Tông khi ấy mới 12 tuổi, theo sau tiếp ứng. Khi nghe viên Trấn thủ Nam Bố Chính cấp báo, chúa Hiền liền họp triều thần chọn Nguyên soái để chỉ huy quân đội chống lại. Các tướng đồng đề nghị Tôn Thất Hiệp, vì cho rằng tuy ông còn trẻ, chưa đầy 20 tuổi, chưa từng ra trận lần nào, nhưng là người có trí dũng, đáng được giao trọng trách ấy. Chúa Hiền chấp thuận, đồng thời cử thêm Vệ úy Mai Phúc Lãnh và Ký lục Võ Phi Thừa theo giúp việc cho con.

Vào khoảng tháng 9-10 (dương lịch) năm 1672, quân Trịnh Căn đến Nam Bố Chính. Sau ba tháng dài dò xét, hăm dọa, tố cáo chúa Nguyễn không phục tùng nhà Lê; Trịnh Căn thử tấn công vào lũy Đồng Hới, rồi đưa đoàn chiến thuyền đến sông Gianh và sông Nhật Lệ để chờ đổ bộ. Biết tình thế ấy, Tôn Thất Hiệp cho đắp thêm lũy Trấn Ninh, bố trí thêm súng thần công và cấp báo với chúa Hiền.

Tháng 1 (dương lịch) năm 1673, Lê Thời Hiến xua quân tấn công lũy Trấn Ninh nhưng bị thua khiến Trịnh Tạc nổi giận, nghiêm phạt các quan quân bại trận. Được tăng cường thêm lính, Lê Thời Hiến mở cuộc tấn công thứ hai rất mãnh liệt...Chỉ trong vòng một ngày chiến đấu, lũy Trấn Ninh bị phá nhiều chỗ và đôi bên đã giằng co, chiếm qua chiếm lại từng khu vực một.

Nao lòng, tướng Nguyễn tên Trương Phúc Cang toan bỏ lũy, qua cố thủ bên này sông Lê Kỳ nhưng Tôn Thất Hiệp không đồng ý, e tổn hại cho sĩ khí ba quân. Sau khi toan tính, Tôn Thất Hiệp sai quân phi ngựa đến lũy Sa Kỳ, truyền cho lão tướng Nguyễn Hữu Dật phải tức tốc qua lũy Trấn Ninh cứu khổn.

Nhận lệnh ấy, theo nhà văn Sơn Nam, thì Nguyễn Hữu Dật đã lạnh lùng trả lời rằng: "Ta chỉ lo gìn giữ lũy Sa Phụ nầy mà thôi. Ngay từ hồi đầu chiến trận, ta không được ai chia sớt trách nhiệm nào ở lũy Trấn Ninh cả. Ta không dám đi!". Câu trả lời trong giây phút bất mãn, nhưng sau đó Nguyễn Hữu Dật liền hối hận...

Nguyễn Hữu Dật chạy nhanh lên lũy Sa Phụ, đứng quan sát thực tế của chiến trận. Bên kia sông, súng thần công nổ vang rền, khói bốc mịt trời che lấp lũy Trấn ninh. Chắc chắn Lê Thời Hiến chiếm ưu thắng và tướng sĩ Đàng Trong đang đại bại ở ngay mặt trận chánh. Ông dư hiểu: "Nếu mình không đi cứu viện thì Tôn Thất Hiệp phải đi cứu viện, và liệu vị nguyên soái quá trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm ấy có đủ sức ứng phó?"

Nghĩ vậy, Hữu Dật tức tốc lên yên, kéo quân đến Trấn Ninh, dọc đường, ông cẩn thận vạt vỏ viết vào thân cây mấy chữ tóm tắt: "Hữu Dật đã qua cứu viện lũy Trấn Ninh, xin Nguyên soái (Tôn Thất Hiệp) đến giữ lũy Sa Phụ đang bỏ trống". Đọc tin ấy, Tôn Thất Hiệp qua giữ lũy Sa Phụ và rồi đánh tan được đội thuyền tuần tiểu trên sông Nhật Lệ của Tham đốc Thắng.

Ở mặt trận Trấn Ninh, khi lão tướng đến được nơi ấy thì trời đã tối đen như mực. Trước cảnh binh sĩ lớp chết, lớp bị thương, số còn lại chiến đấu gần như tuyệt vọng, ông ra lệnh gom nhánh cây, cỏ khô, đốt lên sáng rực. Biết có viện binh đến, quân Trịnh không dám tiến. Suốt đêm, Hữu Dật đốc suất quân sĩ tích cực sửa chữa chiến lũy, nhưng trời vừa rạng sáng, Lê Thời Hiến lại tấn công. Quân sĩ Đàng Trong chống trả quyết liệt, cho nên con số bị thương và thương vong của cả hai phía đều tăng lên từng ngày. Lại gặp lúc gíó bấc thổi mạnh, mưa phùn lê thê, lạnh lẽo hơn bao giờ hết, chúa Trịnh Tạc tự xét thấy không thể thắng nổi, nên cho rút quân về...

Làm lễ cầu siêu cho các tướng sĩ Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài chết trận, thả tù binh xong; tháng 4 (dương lịch) 1673, Tôn Thất Hiệp về đến Thạch Xá. Chúa Hiền mừng rỡ, khen ngợi, ban thưởng nhiều vàng bạc. Nhận thưởng, nhưng sau đó Tôn Thất Hiệp từ bỏ gia đình, quyết chí xuất gia, tuy mới 20 tuổi.

Khi chỉ huy chiến trận, ông hoàng Hiệp sống khắc khổ, ngồi trong trại, chỉ có hai vệ sĩ túc trực bên cạnh. Lần nọ, một lão già ở Quảng Bình tên Bật Nghĩa đến trại với ý định “tiến” cho ông một thiếu nữ xinh đẹp. Tuy từ chối nhưng ông không quên cấp cho lão già 10 quan tiền, vì hiểu rằng người cha nọ hành động như vậy chỉ vì quá túng thiếu cơm áo ở thời loạn [theo Sơn Nam, tr. 23].

Hoàng Hiệp liễu đạo năm 22 tuổi (1653 - 1675), ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão (ngày 6 tháng 8 năm 1675), an táng ở làng Hiền Sĩ, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (Huế), có lẽ không lưu lại một bút tích, một bài thơ truyền khẩu nào. Nhưng hậu thế tưởng còn nhận được hình bóng bất diệt của ông qua nụ tười phảng phất trên môi của các tượng Bồ Tát trong chùa, giữa tiếng kệ kinh.

Theo tài liệu của chùa Minh Thiện ở núi Bút Sơn, làng Thanh Tuyền, phía Tây dinh Thái Khang (sau chùa dời về ở xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) thì chính Tống Phước Hiệp, là Tổ khai sơn chùa Minh Thiện, và khi ấy ông có pháp danh là Giác Sanh Thiền Hòa Tử.
Sau thời gian hoằng hóa ở chùa này, ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão, nhà sư Giác Sanh Thiền Hòa Tử viên tịch, được chúa Hiền ban thụy hiệu là “Tịnh Đức Phổ Chiếu Hoà thượng” [dẫn lại theo Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tr. 84].

Thông tin thêm:
Theo Gia phả Nguyễn Phước tộc, thì Tống Phước Hiệp mất vì bệnh đậu mùa. Thương tiếc, chúa Hiền phong tặng ông là: "Minh Nghĩa Tuyên Đức, Công Thần, Khai Phủ Quốc Thượng Tướng Quân, Cẩm Y Vệ, Đô Đốc Phủ Sự, Thiếu Úy Hiệp Quận Công", thụy là Toàn Tiết. Nhà thờ ở làng Vân Thê (Thừa Thiên), mộ táng trong khuôn viên nhà thờ. Vào thời vua Gia Long, ông được xếp vào hàng thượng đẳng công thần, được thờ ở Tả Vu nhà Thái Miếu (Huế). Đến đời vua Minh Mạng được tấn phong là Quốc Uy công.

Bà vợ của ông húy là Nguyễn Thị Hưng, tiểu sử không rõ. Bà mất ngày 13 tháng 2 âm lịch [không rõ năm], mộ táng cùng một chỗ với ông, trong khuôn viên nhà thờ. Tống Phước Hiệp có 4 người con trai là Nguyễn Phúc Nhuận, Nguyễn Phúc Lễ, Nguyễn Phúc Thiều, Nguyễn Phúc Phan. Chỉ có hai ông Nhuận và Thiều là hiển đạt, làm quan đến Chưởng dinh.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Sách tham khảo:
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
-Sơn Nam, Nói về miền Nam, chương: Ông Hoàng Hiệp và trận giặc năm 1673. Nhà xuất bản Trẻ, 2009.
-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 3). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1959.
-Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.





Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011

Danh thần nhà Nguyễn: Bùi Quỹ (1795-1861)

Bùi Quỹ, tự: Hữu Trúc, là người huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông nội ông là Bùi Vinh Thận đỗ Hương cống đời Hậu Lê.

Năm Minh Mạng thứ 10 (Kỷ Sửu, 1829), Bùi Quỹ thi đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu. Sau, ông lần lượt trải các chức: Tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị), Viên ngoại lang bộ Công, Lang trung...

Năm 1836, cử ông ra làm Án sát sứ ở Quảng Trị, rồi lại triệu về kinh làm Biện lý bộ Công, sau thăng Hữu thị lang, rồi chuyển sang bộ Hình.

Thiệu Trị năm thứ nhất (Tân Sửu, 1841), thăng ông làm Thự Hình bộ Hữu Tham tri. Tháng 8 (âm lịch) năm này, sung ông làm Chủ khảo trường Hương tại Thừa Thiên. Sau khi việc chữa bài của Cao Bá Quát bị phát giác, ông bị xử cách lưu.

Tự Đức năm thứ nhất (Mậu Thân, 1848), cho ông làm Lễ bộ Hữu Tham tri, sung làm Chánh sứ sang Yên Kinh (Bắc Kinh, Trung Quốc ngày nay).

Tháng 7 (âm lịch) năm sau (1849), sứ nhà Thanh là Lao Sùng Quang đến kinh đô Huế làm lễ tuyên phong cho nhà vua [1]. Khoảng thời gian này, Bùi Quỹ cũng vừa về nước, được bổ làm Tả phó Đô ngự sử ở viện Đô sát. Nhưng chẳng lâu sau, ông bị giáng hai cấp, vì đàn hặc Trương Đăng Quế là "chuyên quyền tự tiện" trong vụ mất trộm ở nhà Công chúa An Mỹ, nhưng không được vua nghe [2].

Năm 1851, điều ông làm Thự Án sát sứ ở Tuyên Quang, rồi lần lượt thăng ông làm: Hồng lô tự khanh sung Sử quán Toản tu, Hàn lâm viện Trực học sĩ, Lại bộ Tả tham tri…

Năm 1859, sung ông đi công cán đất Bắc. Khi từ Sơn Tây trở về ông có dâng mật sớ trình bày về việc bố phòng, việc giỏi dở của các quan lại,...được vua khen. Trong năm ấy, đổi ông làm Tuần phủ hộ lý Tổng đốc Bình Phú (tức Phú Yên và Bình Định). Ở đây, nhờ ông ra sức cứu giúp và vỗ về mà nỗi khổ của dân vì mấy năm mất mùa, được vơi đi phần nào.

Năm Tự Đức thứ 14 (Tân Dậu, 1861), Bùi Quỹ ốm chết ở chỗ làm quan, thọ 66 tuổi.

Bùi Quỹ có để lại tập Yên đài anh thoại. Ngoài ra, ông còn cùng với Nguyễn Văn Siêu soạn bộ Đại Việt địa dư toàn biên (còn được gọi là Phương Đình dư địa chí).

Nói về Bùi Quỹ, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 631) có đoạn:
“…Bùi Quỹ ở chức lâu ngày, noi theo phép thánh hiền...Tính (ông) giữ chất phác mộc mạc, không thích bóng bẩy bề ngoài. (Ông) thường nói: "Học giả trước hết cốt phải một lòng thành thực làm đầu". Bọn sĩ phu đều khen...Khi tại chức, Bùi Quỹ luôn giữ phong hóa pháp độ, thường dâng sơ tham hặc các đại thần; lại tâu xin cho hiệu chính bộ "Đại Việt sử ký", sửa lại bộ "Đại Nam nhất thống chí", đồng thời quảng bá tập "Đại Nam phong nhã thống biên", để sáng tỏ việc văn trị. Các lời trình bày ý kiến, phần nhiều đều được thi hành”...

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Chú thích:
[1] Trước đây lễ Tuyên phong đều tổ chức tại thành Hà Nội (theo Quốc triều sử toát yếu. NXB Văn học, 2002, tr. 358).
[2] Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (truyện "Trương Đăng Quế"), tr. 438.
Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện (truyện "Bùi Quỹ"). Nhà xuất bản Văn học, 2004.

Nguyễn Văn Siêu

Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán

Nguyễn Văn Siêu (chữ Hán: 阮文超, 1799-1872), ban đầu tên là Định, sau đổi là Siêu, tự: Tốn Ban, hiệu: Phương Đình [1]; là nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam ở thế kỷ 19.

Ông sinh năm Kỷ Mùi (1799) ở làng Kim Lũ (Đại Kim), huyện Thanh Trì (nay là quận Hoàng Mai, Hà Nội).

Lớn lên, ông theo học với Tiến sĩ Phạm Quý Thích, và kết bạn văn chương với Cao Bá Quát, mặc dù nhà thơ này kém ông 10 tuổi. Năm 26 tuổi, ông thi Hương đỗ Á nguyên (Cử nhân thứ hai), nhưng hơn 10 năm sau mới đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất (1838) dưới triều vua Minh Mạng. Năm 26 tuổi, ông thi Hương đỗ Á nguyên (Cử nhân thứ hai), nhưng hơn 10 năm sau mới đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất (1838) dưới triều vua Minh Mạng.

Giải thích cho sự chậm trễ này, sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” (tr. 722), cho biết vì ông "đọc sách cốt để rèn về cổ văn, không chuyên về học khoa cử, (nên) tới lúc đỗ Hương tiến (Cử nhân), thường cáo từ không đi tuyển cử (nữa), chỉ ở nhà tranh dưỡng chí, tới 10 năm có lẻ, sau mới đỗ Tiến sĩ Ất khoa (tức Phó bảng)".
Cùng đỗ khoa này với ông có Phạm Văn Nghị, Nguyễn Cửu Trường, Doãn Khuê), Đinh Nhật Thận...

Ngay năm đó (1838), ông được bổ làm Hàn lâm viện Kiểm thảo. Năm 1839, ông làm Chủ sự ở bộ Lễ. Năm 1840, thăng ông làm Viên ngoại lang. Cuối năm này vua Minh Mệnh chết, Thiệu Trị nối ngôi.

Biết tài Nguyễn Văn Siêu, nên vừa lên ngôi, vua Thiệu Trị chuyển ông làm Thừa chỉ trong Nội các. Ít lâu sau, cho ông kiêm giữ cả chức Thị giảng (phụ trách việc giảng sách cho các Hoàng tử, trong số ấy có Nguyễn Phúc Hồng Bảo, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm)...

Tháng 8 (âm lịch) năm 1841, ông được cử làm Phân khảo tại trường Hương Thừa Thiên. Sau khi việc chữa bài của Cao Bá Quát bị phát giác, Nguyễn Văn Siêu phải tội trượng, đồ. Sau vua xét lại, ông chỉ bị cách chức.

Năm 1847, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên ngôi (tức vua Tự Đức). Hai năm sau (1849), Nguyễn Văn Siêu được cử làm Phó sứ trong đoàn đi sứ sang Yên Kinh (tức Bắc Kinh, Trung Quốc ngày nay). Khi đi vua Tự Đức có dặn: "Khanh học vấn uyên bác, chuyến này đi sang sứ, xem xét núi sông, phong tục, ghi chép kỹ, khi về tiến lãm"; nên lúc về (1850), ông dâng lên quyển "Vạn lý tập dịch trình tấu thảo" .

Về nước (1850), ông được thăng làm Học sĩ ở viện Tập hiền. Năm 1851, ông ra làm Án sát Hà Tĩnh, rồi Án sát Hưng Yên.

Lúc bấy giờ có lời bàn về việc hủy đê, ông điều trần lên cho là bất tiện, có khảo cứ rõ ràng. Sau vì ông mắc bệnh, phải chuyển đổi, rồi cáo bệnh về làng. Ít lâu sau, ông lại được phục chức Hàn lậm viện Thị độc, nhưng viện lẽ đến tuổi xin về hưu hẳn (1854)[3].

Từ đó cho tới khi qua đời (1872, thọ 73 tuổi), non 20 năm Nguyễn Văn Siêu ở Hà Nội, vui với việc dạy học, soạn sách. Điều đáng kể nữa, đó là việc lập nhà thờ họ ở làng Kim Lũ; và việc ông đã đứng ra tu sửa đền Ngọc Sơn, bắt cầu Thê Húc, xây Tháp Bút và Đài Nghiên...ở tại Hồ Gươm (Hà Nội) vào năm 1865.

Các tác phẩm của Nguyễn Văn Siêu đều bằng chữ Hán, và đã được khắc in.

Về sáng tác, có:
-Phương Đình văn loại (Văn Phương Đình phân loại)
-Phương Đình thi loại (Thơ Phương Đình phân loại)
-Phương Đình thi văn tập (Tập thơ văn Phương Đình)
-Phương Đình tùy bút lục (Sao lục tùy bút của Phương Đình)

Về nghiên cứu, có:
-Chư kinh khảo ước (Lược khảo các kinh)
-Chư sử khảo thích (Khảo và chú các bộ sử)
-Tứ thư bị giảng (Giảng giải đầy đủ về tứ thư)
-Đại Việt địa dư toàn biên, còn gọi là Phương Đình dư địa chí, do Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ soạn thời Tự Đức, in năm 1900 với phần lời tựa của Nguyễn Trọng Hợp.

*
Nói về Nguyễn Văn Siêu, sử nhà Nguyễn là Đại Nam chính biên liệt truyện có đoạn viết:
Nguyễn Văn Siêu ở Hàn Các đã lâu, nên cáo văn điển sách của triều đình phần nhiều (do) ông soạn thảo cả, về thế văn học (của ông) được vua biết đến. Đương thời đều tôn trọng ông. Tới tuổi già rút lui, (ông) thích bảo ban kẻ hậu học, mà giảng sách biện biệt ngay thẳng chỗ giống chỗ khác lấy nghĩa lý làm chủ...(tr. 722-723)
Về sự nghiệp văn chương, đương thời ông và Cao Bá Quát được coi là hai danh sĩ tiêu biểu lúc bấy giờ (Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán). Ngoài các tác phẩm nghiên cứu nghiêm túc, có nhiều phát hiện đáng quý, Nguyễn Văn Siêu còn là một người có tài thơ. Thơ ông đáng chú ý nhất là mảng phản ánh đời sống nghèo đói, cực khổ, loạn lạc của nhân dân thời ấy (như bài: "Tự Bắc Ninh phó Hải Dương vịnh hoài"; "Nhân tự Bắc Ninh lai, ngôn Bắc Ninh sự, cảm tác"); và lòng tự hào của nhà thơ về đất nước, về nhân dân, về dân tộc (như bài "Chương Dương độ"). Bên cạnh đó, ông cũng làm nhiều bài thơ miêu tả cảnh thiên nhiên tình tứ, nhất là cảnh Hà Nội; và làm nhiều bài thơ để trao đổi, gửi tặng cho bạn bè, trong đó có Cao Bá Quát...

Tóm lại, Nguyễn Văn Siêu là một trí thức trong sạch, đạo đức cao đẹp, học thức uyên bác, một nhà giáo gương mẫu, một nhà nghiên cứu nghiêm túc, một nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, đáng trọng. Ông xứng đáng có một chỗ đứng nhất định trong nền văn học và văn hóa Việt Nam thế kỷ 19 .

Ghi nhận công lao, tên Nguyễn Văn Siêu đã được dùng để đặt tên cho đường phố và trường học ở nhiều nơi trong nước Việt Nam.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
1. Nhân ngôi nhà dạy học của ông có hình vuông nên lấy hiệu này.
2. Theo Nguyễn Vinh Phúc, sau khi đỗ Á nguyên, ông không xin làm quan mà ở nhà đọc sách, học thêm và dạy trẻ. Chính trong thời gian này ông kết bạn thân thiết với Cao Bá Quát (tr. 591-560).
3. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 722). Theo Nguyễn Lộc thì năm 1854, ông dâng sớ thỉnh cầu một số việc nhưng không được phê chuẩn, bèn thác bệnh xin từ quan về nhà (tr. 1221). Theo Nguyễn Vinh Phúc (bài viết đã dẫn), lúc ông Siêu làm Án sát Hưng Yên, thì đê ở đây hay bị vỡ. Vì lẽ đó, ông có gửi về kinh (Huế) một số điều trần, song có lẽ không hợp ý vua, nên ít lâu sau, ông bị giáng trật. Đến năm 1854, thì ông xin về nghỉ.

Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện (truyện "Nguyễn Văn Siêu"). Nhà xuất bản Văn học, 2004.
-Nguyễn Lộc, mục từ "Nguyễn Văn Siêu" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ: "Nguyễn Văn Siêu". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Nguyễn Vinh Phúc, bài viết về "Nguyễn Văn Siêu" in trong Danh nhân Hà Nội do Vũ Khiêu (Chủ biên). Nhà xuất bản Hà Nội, 2004.