Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

Trần Trọng Khiêm, người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ

Trần Trọng Khiêm (1821-1866), sau đổi tên là Lê Kim [1]; là người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ. Sau khi từ bỏ việc đi tìm vàng, ông trở thành nhà báo Việt đầu tiên ở đây, rồi sau nữa ông trở thành một chỉ huy trong công cuộc chống Pháp do Võ Duy Dương lãnh đạo tại Đồng Tháp (Việt Nam) ở giữa thế kỷ 19.

Ông sinh năm Tân Tỵ (1821) tại làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi (nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, nổi tiếng hay chữ, nhưng không đi thi. Năm 20 tuổi, ông lập gia đình với người họ Lê cùng làng, rồi theo nghề buôn bán gỗ ở Bạch Hạc (Việt Trì) và Phố Hiến (Hưng Yên).

1. Trả thù cho vợ, rồi trốn ra nước ngoài:
Năm 1843, vợ ông Khiêm bị một viên chánh tổng hại chết vì chiếm đoạt bà không được. Căm giận, ông giết chết ông này để trả thù cho vợ, rồi trốn đến Phố Hiến, xin làm thủy thủ cho một tàu buôn nước ngoài.

Sau khi lần lượt trải qua Hương Cảng (Hồng Kông), Anh, Hà Lan,...cuối cùng ông đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ) vào khoảng năm 1849. Tại đây, ông gia nhập vào đoàn người ô hợp do Mark (người Canada) lập nên, để đi tìm vàng ở miền Viễn Tây Hoa Kỳ.

Năm 1854, chán cảnh hỗn độn, truỵ lạc và cướp bóc ở nơi ấy, ông tìm đến California, làm công việc chạy tin tự do cho vài tờ báo như tờ Alta California, Morning Post, và làm biên tập viên cho tờ nhật báo Daily Evening. Đề tài mà ông thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai khoáng ở bắc California và quanh khu vực San Francisco...Kiếm sống như vậy khoảng hai năm, nhân một chuyến tàu sang Hương Cảng, ông xin theo, rồi nhập tịch Trung Quốc.

2. Trở về nước, tham gia chống Pháp:
Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về nước. Nhưng vì sợ bị bắt, nên ông không về quê mà vào Định Tường (Nam Kỳ) để khai hoang lập nghiệp, trong thân phận là một người Minh Hương. Và ông là một trong những người đầu tiên đứng ra khai phá, lập nên làng Hòa An thuộc phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường xưa (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp).

Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương (lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ của ông là làng Xuân Lũng).

Năm 1864, quân Pháp đã đánh chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, sau đó họ lần lượt mở các cuộc tấn công ba tỉnh miền Tây còn lại. Để cản ngăn quân xâm lược, Trần Trọng Khiêm tình nguyện theo thủ lĩnh Võ Duy Dương (1827-1866) mộ quân chống lại. Sau đó, ông được giao chỉ huy một đội quân, và đã đụng độ với quân Pháp nhiều trận ở Mỹ Trà (nay thuộc thành phố Cao Lãnh), Cao Lãnh, Cái Bè, Cai Lậy,...

3. Tuẫn tiết:
Năm 1866, trong một đợt truy quét của quân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, đồn quân do Trần Trọng Khiêm cai quản bị thất thủ. Không chịu bị bắt, ông đã tuẫn tiết. Năm ấy, ông mới 45 tuổi. Sau đó, thi hài ông được nghĩa quân chôn cất tại Gò Tháp (nay thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).

Theo Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim (tức Trần Trọng Khiêm) gìn giữ, thì trước khi mất, ông căn dặn vợ lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi dạy con; đồng thời căn dặn các con sau này luôn giữ gìn đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng tham vàng bỏ ngãi nghĩa..

Cảm phục tấm gương "vì nước quên thân" của Trần Trọng Khiêm, có người làm đôi câu khắc trên mộ ông:

Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần Hùng Nhị [2] còn truyền hậu thế.


Ghi công ông, hiện ở quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm.

Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) được hai nhà văn (một Pháp, một Việt) hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu thuyết có nhan đề là: “La rueé vers l'or” (Đổ xô đi tìm vàng) của Rene Lefebre (nhà xuất bản Dumas, Lyon, 1937) và “Con đường thiên lý” của Nguyễn Hiến Lê (viết xong năm 1972, in năm 2001).

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
1.Trong tiểu thuyết La rueé vers l'or ghi tên ông là Lee Kim.
2. Rất có thể là "(núi) Nùng (sông) Nhị", nhưng do chép sai hoặc lỗi lúc in ấn.

Sách báo tham khảo:
-Nguyễn Hiến Lê, “Con đường Thiên lý”. Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2001.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”. Mục từ “Trần Trọng Khiêm”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Bài viết về "Trần Trọng Khiêm" trên website Lịch sử Việt Nam (http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=560&Itemid=34)
-Bài viết "Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ" trên Công an Nhân dân online đăng ngày 9 tháng 2 năm 2011 (http://www.cand.com.vn/vi-VN/cstc/2011/2/144147.cand) .

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2011

Danh thần triều Nguyễn: Trương Đăng Quế (1793-1865)

Trương Đăng Quế (chữ Hán: 張登桂, 1793-1865), tự: Diên Phương, hiệu: Đoan Trai, biệt hiệu: Quảng Khê; là danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Trong 43 năm làm quan, có 20 năm ông giữ trọng trách lớn (có hai lần nhận di chiếu tôn phò vua mới). Ngoài ra, ông còn là nhà thơ, nhà sử học, là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương.

I. Thân thế:
Trương Đăng Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) tại làng Mỹ Khê, xã Tịnh Khê (còn có tên là Mỹ Lại), huyện Bình Sơn (nay là Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi.

Tiên tổ của ông là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Lê Hy Tông thứ 10 (1622), tổ đời thứ sáu là Trương Đăng Trường vào Nam, làm quan đến Cai quản, tước Nham Lĩnh bá. Nhân thế, ông Trường làm nhà ở tại làng Mỹ Khê.

Trải qua bốn đời truyền nối làm quan, đến đời cha ông Quế là Trương Đăng Phác, làm Tri phủ cho triều Tây Sơn. Vợ ông Phác là bà Đỗ Thị Thiết, sinh hạ được 8 người con (4 trai, 4 gái), trong đó Trương Đăng Quế là người con thứ 5.

II. Sự nghiệp:
2.1 Làm quan trải bốn triều:
Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế có tiếng văn hay. Năm 1801, khi ông lên tám tuổi, thì cha mất. Tuy nhiên, nhờ chăm học, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân, đây là học vị cao nhất lúc bấy giờ). Theo sử Nguyễn thì ông chính là người "đầu tiên" ở Quảng Ngãi đạt được học vị này [1].

-Dưới triều Gia Long, Minh Mạng:
Ban đầu, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Lễ dưới triều Gia Long. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được thăng Biên tu. Biết ông là người có nhân cách và tài học, nhà vua sung ông làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử.

Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Thị độc sung Tán Thiện (1826), Thượng bảo thiếu khanh quản lý phòng văn thư (1828), Thị lang bộ Công sung làm việc ở Nội các (1830); lại đổi sang bộ Lễ sung chức khảo trong kỳ xét hạch giáo chức các tỉnh tại Quốc Tử Giám ở Huế (tháng 6 năm 1830).

Năm 1831, vua Minh Mạng sai ông đi Bắc Thành điểm ngạch sổ binh, khi về được nhắc lên Tham tri bộ Hộ kiêm quản Vũ khố, sung chức Độc quyển thi trong kỳ thi Đình. Tiếp theo, thăng ông lên làm Thượng thư bộ Binh, kiêm giữ ấn triện viện Đô sát, sung Cơ mật viện đại thần.

Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chống Nguyễn ở Gia Định. Là Thượng thư bộ Binh, Trương Đăng Quế lo trù tính phương cách đối phó. Đến tháng 7 năm 1835, cuộc nổi dậy này bị đánh dẹp, xét công, ông được thưởng hàm Thái tử thiếu bảo, sung Chủ khảo kỳ thi Hội.
Đầu năm 1836, nhà vua chọn ông làm Kinh lược đại thần đi kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Hoàn thành tốt công việc, ông được khen và được thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện, nhưng vẫn coi giữ bộ Binh.

Khoảng thời gian ấy có Quách Tất Công và Quách Tất Tại, sau khi bị đánh thua trong cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương ở vùng Hòa Bình, lại tôn phò Lê Duy Hiển khởi binh chống Nguyễn ở Thanh Hóa. Quan quân đánh dẹp mãi không xong. Thấy vậy, Trương Đăng Quế bèn xin đi, được vua sung chức Kinh lược sứ tỉnh Thanh Hóa (cuối năm 1836). Thắng trận trở về, ông được gia thưởng Kỷ lục quân công (1837). Cũng trong năm này, ông được cử quản lý Khâm thiên giám.

Năm 1838, cho ông kiêm coi Quốc tử giám ở Huế, lại sung làm Chủ khảo kỳ thi Hội và Độc quyển kỳ thi Đình.

Năm 1839, tấn phong ông là Tuy Thịnh nam, sau lại kiêm giữ ấn triện bộ Lễ.

Năm 1840, sung ông chức Tổng lý coi việc làm lăng của vua. Cũng trong năm này, ông nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn phò Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị) lên ngôi.

-Dưới triều Thiệu Trị:
Thiệu Trị năm đầu (1841), nhà vua chuẩn cho Trương Đăng Quế làm Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý bộ Binh, kiêm Cơ mật viện, kiêm sung chức Tổng tài ở Quốc sử quán.

Năm 1842, nhà vua đi tuần ra Bắc, sung ông làm Ngự tiền đại thần. Khi về, nhà vua tấn phong cho ông tước tử, và thưởng một đồng kim tiền hạng nhất.

Năm 1844, vì có bệnh, Trương Đăng Quế xin phép nghỉ. Trong khoảng thời gian này, ông xin bổ dùng con cháu của Mạc Thiên Tứ, được vua nghe theo.

Năm 1846, nhà vua gả con gái là An Mỹ công chúa cho con trai ông là Trương Đăng Trụ.

Năm 1847, vua Thiệu Trị tấn phong Trương Đăng Quế lên tước Tuy Thạnh bá, và cho khắc tên vào cỗ súng lớn có tên là “Bảo đại định công” (cỗ thứ nhất). Tháng 9 năm này, lại sung ông làm Phụ chính đại thần, nhận di chiếu tôn phò Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức Tự Đức) lên kế vị.

-Dưới triều Tự Đức:
Sau khi lên ngôi, Tự Đức phong ông làm Công chính điện đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạnh Quận công. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), bắt đầu đặt viện Tập hiền, Trương Đăng Quế được cử làm Kinh diên giảng quan.

Tháng Giêng năm sau (1850), ông nhận mệnh đi duyệt binh. Kỳ đại kế [2] năm ấy, ông được vua ban thưởng một kim khánh có khắc 4 chữ “Tam Triều Thạc Phụ”.

Năm 1853, nhà vua lại sung ông làm Chánh sứ Bắc Kỳ hà đê. Sau khi đi kinh lý miền Bắc trở về, đề xuất việc sửa sang đê điều, đều được nhà vua nghe theo. Sau đó, lấy cớ sức yếu, ông xin thôi việc, được vua chấp thuận và cho giữ nguyên phẩm hàm. Nhưng chỉ được ít lâu, thuận theo lời tâu của các quan đứng đầu sáu bộ, nhà vua lại triệu ông vào triều tiếp tục giữ bộ Binh. Năm 1855, Trương Đăng Quế xin về hưu, nhưng nhà vua không cho.

Tháng 7 (âm lịch) năm 1858, có 12 chiếc tàu Pháp đến bắn phá các bảo đài ở cửa Hàn (Đà Nẵng, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Nam). Theo sử Nguyễn, buổi đầu ông cùng Phan Thanh Giản đều tâu là “chiến không bằng hòa”. Tuy nhiên theo ông Quế, thì trước khi hòa, “cần phải giữ vững đã”. Được vua cho là phải, sau đó ông nhận lệnh đi khắp Quảng Nam đôn đốc việc xây đắp đồn lũy để phòng thủ...[3]

Sau khi bị ngăn cản ở Đà Nẵng, quân Pháp kéo vào Nam, đến tháng 2 năm 1859, thì thành Gia Định bị đối phương đánh hạ. Thấy quân xâm lược cứ lấn tới, mà mình thì đã già không thể làm tròn trọng trách, tháng 9 (âm lịch) năm 1860, Trương Đăng Quế xin về nghỉ. Trích lời tâu của ông:
Từ người Tây dương (chỉ quân Pháp) sang đây đã 3 năm nay, thần ê mặt với các quan trong triều, vì không thi thố được một kế nào để đuổi chúng lui, thì tội (của thần) tránh sao được...(Nay thần) lại bóng dâu gần ngã, tật bệnh liên miên, hầu như sắp chết, nghĩ thẹn vì cố giữ địa vị...
Lần này, nhà vua cho ông về nhà riêng dưỡng bệnh, 10 ngày hoặc 5 ngày mới phải vào chầu một lần [4].

Năm Tự Đức thứ 15 (1862), Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin về nghỉ hưu. Theo lời bàn của đình thần, nhà vua cho ông thôi giữ bộ Binh, vì ở đó lúc này rất nhiều việc. Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng hàm Thượng thư và bỏ tước Quận công, vì để cho "bốn cõi nhiều loạn, là sự nhục của khanh đại phu, là không làm tròn chức vụ của thần". Vua không chuẩn cho. Trương Đăng Quế lại dâng sớ nói: Thần không có kế gì để đẩy lui được giặc, nay xin đem một nửa số lương bổng (của thần) lưu lại ở kho để giúp quân phí...Nhà vua phải gượng làm theo ý ấy [5]

Sau, Trương Đăng Quế còn dâng sớ xin về hưu mấy lần nữa, vua Tự Đức mới thuận cho ông về nghỉ hẳn tại quê nhà vào tháng 3 (âm lịch) năm 1863. Mặc dù vậy, khi có việc hệ trọng, nhà vua cũng thường cử người đi hỏi ý kiến ông. Có lần, được nhà vua hỏi về việc nước, ông gửi sớ tâu 5 điều, trong đó đáng chú ý là: "Đường lối trị nước, cần ở dùng người, nhất là quan lại cấp huyện; Muốn quan thanh liêm, không gì bằng bớt viên chức đi, mà tăng lương bổng; Của dùng thiếu, tùy theo trường hợp, có thể cho phạm nhân được nộp thóc hay vàng chuộc tội",...Sớ tâu này được vua giao cho đình thần bàn bạc để thi hành [6].

Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Trương Đăng Quế lâm bệnh nặng mất ở tuổi 72. Nghe tin, nhà vua cho nghỉ triều 3 ngày, truy tặng ông hàm Thái sư, ban tên thụy là Văn Lượng, cho khắc trên bia mộ dòng chữ: Lưỡng triều cố mệnh lương thần Trương Văn Lượng chi mộ (nghĩa là mộ của bề tôi giỏi chịu mệnh tiên đế phó thác qua hai triều là Trương Văn Lượng).

Năm Tự Đức thứ 28 (1876), nhà vua cho thờ ông trong Thế miếu tại Huế, theo lời dụ trước đây của vua Thiệu Trị.

2.2 . Điểm lược một số công lao nổi bật:
-Đóng góp cho văn học, sử học:
Vốn có một kiến thức uyên bác, một tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ, được sử Nguyễn khen là "bình hòa điển nhã", được Phan Thanh Giản khen là: “Không có sách nào là ngài không đọc, lại sở trường thơ ca” [7]. Ông có chân trong trong Tùng Vân thi xã (còn gọi là Mặc Vân thi xã) do Tùng Thiện Vương (là học trò và là con rể ông) làm “chủ súy”.

Sáng tác của Trương Đăng Quế khá nhiều, tiêu biểu là các tập:
-Quảng Khê văn tập (Tập văn Quảng Khê)
-Trương Quảng Khê thi văn (Thơ văn Trương Quảng Khê)
-Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự (Tuyển tập của tiên sinh Trương Quảng Khê)
Khi làm Tổng tài ở sử quán, ông tham gia biên soạn các bộ sử và điển lệ:

-Đại Nam liệt truyện tiền biên (Truyện các nhân vật nước Đại Nam, phần tiền biên)
-Đại Nam thực lục tiền biên (Ghi chép xác thực sử nước Đại Nam, phần tiền biên)
-Đại Nam hội điển toát yếu (Tóm lược những điều cốt yếu của điển lệ nước Đại Nam)
-Nam Giao nhạc chương (Âm nhạc lễ Nam Giao),...

Ngoài ra, thơ văn của ông còn được chép trong các sách: Đại Nam anh nhã tiền biên (Lời hay ý nhã của nước Đại Nam, phần tiền biên), Quốc triều hàn quyển (Vườn văn của bản triều), Thi tấu hợp biên (Hợp biên các bài thơ và tấu), Thịnh thế giai văn tập (Tập văn hay đời thịnh), Thúy Sơn thi tập (Tập thơ về núi Thúy Sơn), Từ uyển xuân hoa (Hoa xuân vườn văn),v.v...

Nói riêng về thơ Trương Đăng Quế, trong sách Từ điển văn học (bộ mới) có đoạn viết:
Thơ ông khoan hòa, điễn nhã…Phần nhiều là thơ xướng họa, đáp tặng, vịnh sử, vịnh cảnh…Nhưng trước hết thơ ông vẫn là tiếng nói trung hậu, ngay thẳng của một bậc đại thần danh vọng cả về tài năng và nhân cách [8].

-Lập địa bạ, đinh bạ Nam Kỳ năm 1836:
Đầu năm 1836, vua Minh Mạng cho là sáu tỉnh Nam Kỳ, sau khi xảy ra sự biến thành Phiên An, việc binh đinh, điền thổ cần phải sửa sang nên chọn Trương Đăng Quế làm Kinh lược đại thần đi kinh lý Nam Kỳ, và ông đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 2 năm đó.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thì chỉ trong 5 tháng, Trương Đăng Quế đã hoàn tất mọi việc, và thành công nhất là công tác duyệt tuyển và đạc điền. Ông viết:
Cuộc kinh lý năm 1836 đã giải quyết nhiều việc như duyệt dân tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại, xếp đặt thể lệ chuyển vận đường sông, chia cắt lại đơn vị hành chính, xếp đặt lính tráng bố phòng những đồn bảo trọng yếu, định thưởng, định việc thưởng phạt trong việc khai hoang lập ấp,v.v…Song đáng kể hơn cả là lập được đinh bạ và đia bạ cho mỗi thôn xã ở Nam Kỳ; đối với nhà nước, thì đỡ tình trạng trốn xâu lậu thuế hay lẩn vào bưng biền để “tụ tập khởi loạn”; đối với xã hội thì “bờ cõi đã đúng, kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản”. Cách làm sổ bộ đó khá chính xác. Sau này, người pháp cai trị thuộc địa cũng rất thán phục, nhất là “địa bạ”, có trường hợp, đến đầu thế kỷ 20, họ vẫn lấy đó làm căn cứ để giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất.
Kết quả cụ thể của cuộc kinh lý năm 1836, là tạm thời làm chậm tình trạng phân hóa giai cấp ở nông thôn Nam Kỳ [9].

-Giúp trị an trong và ngoài nước:
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), vua Minh Mạng thăng Trương Đăng Quế lên Thượng thư bộ Binh. Kể từ đó, ông ra sức giúp việc trị an trong và ngoài nước.
Lược kể mấy việc nổi bật theo sử Nguyễn:
■Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định, Nông Văn Vân ở Cao Bằng cùng khởi binh chống Nguyễn. Thư cáo cấp liên tục gửi về kinh. Bấy giờ “Đăng Quế ngày đêm mưu tính, các việc được đúng khớp, đến sau việc yên. Quế được thưởng gia hàm Thái tử thiếu bảo”…[10]
■Năm 1836, khi nhận trọng trách đi kinh lược Nam Kỳ (1836), song song với việc lập đinh bạ và đia bạ cho mỗi thôn xã, Trương Đăng Quế còn xin và được chấp thuận việc đặt phủ lỵ, đồn bảo ở nơi trọng yếu để “bên trong làm phên che cho Gia Định được vững, bên ngoài làm cho tăng thêm thanh thế của Trấn Tây” (Chân Lạp) [11].
■Cuối năm 1836, thuận theo lời xin của Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng sung ông làm Kinh lược sứ Thanh Hóa để tiễu trừ cuộc nổi dậy của Quách Tất Công và Quách Tất Tại. Đến nơi, ông cho quân đóng ở Lang Chánh rồi vừa chiêu an, vừa chia quân xây đánh. Tháng 3 (âm lịch) năm sau (1837), quan binh bắt sống được Quách Tất Tại. Đến tháng 4 (âm lịch), lại bắt sống được hai nhân vật trọng yếu của quân nổi dậy là Lê Duy Hiển (minh chủ) và Hoàng Nguyệt Đồng (quân sư, dọc đường cắn lưỡi chết). Sang khoảng tháng 5 (âm lịch) thì Thanh Hóa được yên, sau khi các viên chỉ huy quân nổi dậy bị bắt hoặc bị diệt gần hết.
Để giữ yên tỉnh Thanh lâu dài, Trương Đăng Quế xin đắp một bảo lớn (gọi là bảo Ninh Lương), đắp đồn ở động Khương Chánh và ở Trịnh Vạn...Ngoài ra, ông còn xin chia động Trịnh Vạn ra làm 2 tổng (Trịnh Vạn và Quân Nhân), đồng thời xin lấy tổng Như Lăng (thuộc huyện Nông Cống) và tổng Luận Khê (thuộc huyện Lôi Dương) làm thành châu Thường Xuân...Tất cả đều được vua y cho [12].
■Về việc giữ yên đất Chân Lạp và vùng đất biên giới phía Nam, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có chép lời tâu của Trương Đăng Quế:
Vua (Thiệu Trị) nhân bàn đến việc Trấn Tây (Chân Lạp), Đăng Quế tâu: "Bọn thổ phỉ khởi loạn (ở Chân Lạp), cũng là do quan địa phương xử trí không khéo, không trách (bọn ấy) được...Nay Trấn Tây lui quân, thì Hà Tiên thế cô cần phải giữ được vô sự. Với Quảng Biên ruộng đất tốt màu, là bức tường che của Hà Tiên. Thần trộm nghĩ cho là không nên bỏ...[13]
Năm 1947, trong một sắc của vua Thiệu Trị, những đóng góp của ông về việc này lại được nói đến như sau:
Ta chịu mệnh trời đất Tổ khảo, cai trị nước Đại Nam. Năm trước đất miền Tây (thuộc Nam Kỳ) chưa được mở mang, thường lấy làm thẹn. Năm Ất Tỵ (1845), cất quân đi đánh nước Chân Lạp, dẹp được. Năm Bính Ngọ (1846), ta lên thọ 40 tuổi, đến 30 lần ân dụ ban ra, năm ấy nước Xiêm phục, nước Miên hàng, nộp lễ cống, chầu hầu. Năm nay (1847), tướng quân kéo về, tâu thắng trận, thôi không đi đánh, võ công cáo thành, sai công thần trông nom chế ra ba cổ súng đồng thượng tướng quân, truyền đến con cháu, giữ thứ bảo khí ấy lâu dài, không say mê tửu sắc, nghĩ làm việc mới, noi việc cũ, theo noi mưu mô công liệt, trọng văn tạp võ ức muôn năm làm mạnh nước Đại Nam ta. Vả lại, ngự ban cho cố mệnh lương thần, Thái bảo, Tuy Thạnh bá Trương Đăng Quế, trước kia vâng cố mệnh của tiên đế khi gần băng hà để lại, cùng ta trù tính việc biên cương, rồi thành tựu được võ công, giúp rập đức tốt, thực không phụ ơn tri ngộ. Vậy cho khắc vào cỗ súng thứ nhất[14].

-Là thầy giỏi, là viên quan tốt
Trương Đăng Quế là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương. Các công chúa như Nguyệt Đình, Huệ Phố, Mai Am..., dù không theo học, nhưng vẫn xưng là học trò ông. Đương thời, ông được đông đảo giới trí thức lúc bấy giờ kính trọng về học vấn sâu rộng và nhân cách khiêm nhường [15].

Về vai trò của một ông quan, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có đoạn chép về ông như sau:
(Trương Đăng) Quế lúc làm quan, giữ mình khiêm tốn, chính trực, kiến văn nhiều, xử đoán khéo, trài làm quan hơn 40 năm, ngồi ở chức Tể tướng; thế mà ăn mặc giản tiện sơ sài, không khác gì lúc còn chưa làm quan, và lại có tính siêng năng như bộc sạ họ Phòng (tức Phòng Huyền Linh), có mưu trí như Ngụy Công họ Hàn (tức Hàn Kỳ), đã biết thì không điều gì không nói, đã nói thì không có điều gì không nói hết lời. Triều đình lấy làm trọng, các tiên thánh vốn vẫn chọn dùng...Các danh thần lúc bấy giờ, như Tráng liệt bá Nguyễn Tri Phương, mà vua cũng bảo là phong độ không bằng (Trương Đăng ) Quế. Sau khi (Trương Đăng) Quế chết, hoàng thượng (Tự Đức) thương nhớ, triều đình lấy làm tiếc. Các hoàng thân, công chúa và sĩ phu trong ngoài đều làm thơ văn câu đối đem đến phúng. Ấy là (Trương Đăng) Quế làm cho người ta cảm mộ đến như thế...[16].

Ghi nhận công lao Trương Đăng Quế, hiện ở quận Gò Vấp thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên ông.

III. Thông tin khác:
3.1 Liên quan đến việc "phế, lập":
Sau khi vua Thiệu Trị mất (1847), đình thần triều Nguyễn, đứng đầu là Trương Đăng Quế, đã đưa Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên nối ngôi theo di chiếu, lấy niên hiệu là Tự Đức. Việc “phế trưởng, lập thứ” này lập tức gây xôn xao dư luận đương thời. Người ta nghi rằng có sự mờ ám trong việc này và quy cho người gây nên mọi sự chính là Trương Đăng Quế. Từ đó nảy sinh hai nghi vấn:

-Nguyễn Phúc Hồng Nhậm chính là con ruột của đại thần Trương Đăng Quế, được đánh tráo làm con của vua Thiệu Trị, và vị đại thần này đã dùng quyền uy của mình ép nhà vua đưa Hồng Nhậm lên ngai vàng.
-Trương Đăng Quế tư thông với Thái hậu Từ Dũ, sinh ra Hồng Nhậm, nên hai người này đã tìm mọi cách đưa Hồng Nhậm lên kế vị.
Hai luồng dư luận trên, có lẽ, xuất phát từ một loạt các sự kiện liên quan đến việc tranh giành quyền lực giữa hai anh em là Nguyễn Phúc Hồng Bảo (con trưởng nhưng không được nối ngôi) – Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, và sự can thiệp của Trương Đăng Quế để bảo vệ ngai vàng của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), dẫn đến việc Hồng Bảo “nổi loạn” vào năm 1851, bị vua Tự Đức tống giam và chết trong ngục thất vào năm 1854; và việc Đoàn Hữu Trưng cầm đầu “Loạn Chày vôi” vào tháng 9 năm 1866, âm mưu lật đổ vua Tự Đức, đưa con trai của Hồng Bảo là Ưng Đạo lên ngai vàng, nhưng đã bị thất bại. Tuy nhiên, cũng có ý kiến phản bác các lời đồn đãi trên, và tìm cách chứng minh sự vô can của Trương Đăng Quế trong việc “phế, lập” của vua Thiệu Trị, và cũng không hề có chuyện dan díu giữa vị Cố mệnh đại thần này với Thái hậu Từ Dũ. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề "vua Tự Đức là con của ai?" vẫn còn là một nghi vấn.

3.2 Hậu duệ:
Đại thần Trương Đăng Quế có 5 con trai:
-Trương Đăng Trụ lấy công chúa An Mỹ, được bổ làm Phò mã Đô úy, tập phong tước hầu.
-Trương Quang Đản lấy Ngọc Lê quận chúa, làm quan trải đến chức Phụ chính đại thần, Tổng tài Quốc sử quán.
-Trương Văn Để, được bổ làm Chủ sự, dần trải đến chức Tham tri bộ Binh. Năm 1885, ông phò vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, nhưng vì bệnh phải ở lại Cam Lộ. Sau vâng ý chỉ của Tam cung đưa xa giá về kinh (Huế), nên theo vua không kịp, rồi ốm chết ở Quảng Trị. Khi Đồng Khánh lên ngôi cho tước hết chức hàm của ông, đến năm Thành Thái thứ hai (1890), nhờ Trương Quang Đản dâng sớ kêu oan, nhà vua mới cho khai phục nguyên hàm.
-Trương Quang Du, được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu, rồi Thương viện tỉnh vụ Quảng Ngãi.
-Trương Quang Duyệt, được bổ làm Hàn lâm Cung phụng.
Trong số cháu của Trương Đăng Quế, có Trương Quang Chử (con Trương Quang Trụ), sau cũng lấy công chúa; và Trương Đăng Trình, là người thi đỗ Tiến sĩ "đầu tiên" của tỉnh Quảng Ngãi.

IV. Thơ Trương Đăng Quế:
Đầu năm 1836, Trương Đăng Quế nhận lệnh vua đi kinh lược xứ Nam Kỳ. Trước cảnh hoang tàn của thành Phiên An, cảm xúc ông làm bài thơ:

Đăng nguyên Phiên An thành hữu cảm
(Cảm xúc khi lên thành Phiên An cũ)
Dịch nghĩa:
Trải xem chiến trường mà xót xa,
Một khối thành vững chắc đã gây nên mầm họa.
Nhân dân bỗng dưng gặp phải kiếp nạn,
Tướng sĩ chinh chiến dãi dầu gió bụi.
Tường đổ vách tan phá làm bờ lũy,
Kích gãy thương hư chất lại thành đống.
Đáng giận kẻ bề tôi tầm thường [17] đã làm điều sai lầm cho nước,
Nhớ lại việc đã qua, mấy phen ngậm ngùi.
(Trương Quảng Khê thi tập)

Một người bạn thân đi vào Nam để lo việc chống ngăn quân Pháp, Trương Đăng Quế làm thơ tiễn, đồng thời gửi gắm tình ý qua bài:

Tống Gia Định Phương Bá Huỳnh Kiện Trai
(Tiễn đưa Gia Định Phương Bá Huỳnh Kiện Trai)
Dịch nghĩa:
Ông với tôi kết giao đã ba mươi năm nay, chúa cũng biết,
Một đời ông ngay thẳng nên được mọi người tôn trọng.
Nay ông đi vào Nam, tôi làm thơ giãi bày nỗi buồn mùa thu,
Đông Phố [18]đang lúc thiết tha mong đợi cảnh thịnh trị.
Nơi đó đất ruộng rất màu mỡ, việc cày bừa gieo trong thuận lợi,
Nhưng nhân dân vừa trải qua nạn binh lửa, ông nên vỗ về họ.
Chính tôi từng đặt bước tới đó [19]để liệu biện công việc,
Và thấy nơi đấy phảng phất như cảnh Đào nguyên.
(Trương Quảng Khê thi tập)

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
1.Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 430.
2.Đại kế là kỳ xét công các quan để nghị thưởng, cứ 3 năm tổ chức một kỳ.
3.Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 446-447.
4.Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 448.
5.Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 449-451.
6.Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 454-456.
7.Trích trong Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 464) và bài Tựạ của Phan Thanh Giản đề cho Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự.
8.Quách Thị Thu Hiền, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1860.
9.^ Nguyễn Đình Đầu, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I, tr. 214). Những chữ nằm trong dấu ngoặc kép được trích trong Đại Nam thực lục, tập 17, tr. 290 (ghi chú của tác giả).
10.Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 431.
11.Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 431.
12.Lược kể theo Quốc triều sử toát yếu (tr. 266-269) và Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 433-434).
13.Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 435.
14.Đại Nam thực lục (Tập 6). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007, trang 1040-1041.
15.Theo Quách Thị Thu Hiền, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1860.
16. Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 459 và 464.
17. Chỉ Lê Văn Khôi.
18. Đông Phố, nghĩa hẹp chỉ tỉnh Gia Định, nghĩa rộng chỉ chung cả 6 tỉnh Nam Kỳ.
19. Ý tác giả muốn nhắc đến lần đi kinh lý xứ Nam Kỳ vào năm 1836.

Sách tham khảo:
■Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2004.
■Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Quốc triều sử toát yếu (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
■Nguyễn Đình Đầu, phần Địa lý lịch sử thành phố trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
■Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập Thượng), Sài Gòn, 1962.
■Quách Thị Thu Hiền, mục từ "Trương Đăng Quế" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.

Danh thần triều Nguyễn Lê Văn Phú (? - 1854)

Lê Văn Phú (? - 1854), hiệu: Lễ Trai; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam.

Ông là người ở huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế).

Khi chúa Nguyễn Phúc Ánh mang quân chủ lực vượt biển ra đánh chiếm Phú Xuân năm 1801, Lê Văn Phú xin theo [1], được sung vào đội Thượng Trà.

Năm 1813 dưới triều Gia Long (tức Nguyễn Phúc Ánh), ông được thăng làm Chánh đội trưởng suất đội đội Thị Trà.

Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), thăng ông lên Cai đội, rồi lần lượt trải đến chức Vệ úy, Chưởng vệ.

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), thăng ông làm Thống chế doanh Thần Cơ, được dự vào đình nghị.

Tháng 2 (âm lịch) năm 1942, sung ông làm Tham tán đại thần, lãnh quyền Tổng đốc Định Biên (tức Gia Định và Biên Hòa), đem binh thuyền vào Gia Định. Sang tháng 4 (âm lịch), ông hội quân với Tổng thống Lê Văn Đức đi đánh quân Xiêm và quân nổi dậy ở núi Tượng (nay thuộc Tri Tôn, An Giang). Thua trận, đối phương bỏ chạy, hai ông mang quân truy đuổi đến tận biên giới của Hà Tiên, rồi mới về lại An Giang. Việc báo lên, nhà vua thưởng Lê Văn Phú một quân công kỷ lục.

Năm 1845, cử ông làm Đề đốc Gia Định, nhưng chưa bao lâu, lại cho ông làm Tổng đốc Định Biên, rồi làm Tổng thống tiểu bộ quân vụ đại thần để hiệp cùng các tướng mang quân sang Trấn Tây (Chân Lạp). Đến tháng 6 (âm lịch) năm này, thành Nam Vang thất thủ trước sự tấn công của quân Việt, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người.... Xét công các tướng, ông được nhà vua thưởng cho một cấp trác dị (có nghĩa là “tài năng cao, khác thường”), và phong tước Vĩnh Trung nam. Sau đó, Lê Văn Phú nhận lệnh trở về Huế. Tại triều, nhà vua tự tay rót rượu mời ông, và ban cho chén ngọc và tượng ngựa bằng vàng.

Năm 1847, gặp kỳ đại kế [2], thăng ông làm Thủy sư Đô thống ở Kinh đô Huế. Tháng 7 (âm lịch) cùng năm, 12 khẩu súng đồng ghi công bình định Trấn Tây (Chân Lạp) đã được đúc xong, tên ông được khắc ở cỗ súng “Thần uy phục viễn”, và trên bia đá dựng ở Vũ Miếu [3].

Tự Đức năm thứ 1 (1848), đổi Lê Văn Phú làm Tổng đốc Hà Ninh (tức Hà Nội và Ninh Bình), rồi thăng làm Tả quân Đô thống phủ Đô thống.

Năm 1851, đổi ông làm Tổng đốc An Tĩnh (tức Nghệ An và Hà Tĩnh). Năm 1853, lại đổi ông làm Tổng đốc Định Biên (tức Gia Định và Biên Hòa), nhưng chỉ được một năm thì mất (1854).

Thương tiếc, nhà vua ban vải lụa, một ngàn quan tiền cho gia đình ông, và cho thờ ông ở đền Hiền Lương tại Huế.

Tác phẩm của Lê Văn Phú để lại có tập thơ “Lễ Trai thi chân bản”, viết bằng chữ Hán. Trích giới thiệu một bài:

Phiên âm Hán-Việt:
Thiệu Trị nhị niên xuân nhị nguyệt nhị thập thất dạ cung tiếp phi đệ dụ điều lãnh Định Biên tổng đốc nhân nhi ngẫu thành

Kinh văn mã thượng đệ thần chương
Trọng ký Nam Kỳ địa nhất phương.
Cấp tiễn y thanh điều bệnh thể
Cánh chiêm nhật cước xúc hành trang.
Quan Trung căn bản tư đàn áp,
Tiêu tướng tài du cảm biệt hàng.
Gia Định diệc như Bình Định địa,
Hải Vân lĩnh bắc thị gia hương.

Dịch nghĩa:
Đêm 27 tháng 2 mùa xuân năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), kính tiếp chỉ dụ điều động tới lãnh chức Tổng đốc Định Biên, nhân đó ngẫu hứng làm thơ.

Chợt nghe chỉ dụ khẩn của nhà vua,
Giao phó cho trọng trách trấn giữ một cõi ở Nam Kỳ.
Vội sắc thuốc thang chữa cho lành bệnh,
Lại xem ngày gấp gục sắm sửa hành trang.
Quan Trung [4] là nơi đất gốc, phải lo dẹp yên,
Tiêu Hà [5] là tướng quốc tài cao, đâu dám so sánh.
Đất Gia Định cũng như đất Bình Định [6],
Phía bắc núi Hải Vân là quê hương ta.

Hậu duệ:
-Lê Văn Đồng (? - ?), con Lê Văn Phú, có vợ là công chúa, trước được bổ làm Phò mã Đô úy; sau được cải bộ, làm quan trải đến chức Quang lộc tự khanh.
-Lê Đình Hòe (? - 1885), cháu Lê Văn Phú, trước làm Tinh binh suất đội; sau trúng hạch được cải sang hàm quan văn, trải đến chức Quang lộc tự khanh. Tháng 5 (âm lịch) năm 1885, khi xảy ra trận đánh với quân Pháp ở Kinh thành Huế, ông mất tại trận.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
1. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 319) ghi là: "đem lòng thành quy phục". Như vậy, rất có thể khi ấy Lê Văn Phú đang làm quan nhà Tây Sơn.
2. Cứ 3 năm, triều Nguyễn cho xét công một lần, gọi là kỳ đại kế.
3. Tuy nhiên, đến năm thứ 4 (1851) đời Tự Đức, khi triều đình đình nghị xong, tấm bia này mới được dựng (ghi chú lấy trong Quốc triều sử toát yếu , bản dịch, tr. 350).
4. Quan Trung là tên đất thuộc tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc) ngày nay. Thời Hán Sở tranh hùng, người dân nơi đây đã góp nhiều công sức cho quân đội nhà Hán. Ở câu thơ này tác giả muốn nói đất Gia Định là nơi đã từng giúp vua Gia Long khôi phục cơ nghiệp, cũng giống như đất Quan Trung là nơi đã từng giúp Lưu Bang dựng nên nhà Hán.
5. Tiêu Hà (?-193 TCN), là Thừa tướng của Hán vương Lưu Bang. Thời Hán Sở tranh hùng, Tiêu Hà giữ đất Quan Trung. Tháng 5 năm 205 TCN, quân Hán đại bại ở Bành Thành, Tiêu Hà đã kịp thời huy động quân lính ở Quan Trung ra tiền tuyến. Quân Hán được tiếp sức, đánh bật được quân Sở.
6. Ý nói Gia Định và Bình Định đều là nơi trọng yếu, cần phải giữ yên.

Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch, mục Lê Văn Phú). Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2004.
-Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Quốc triều sử toát yếu (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
-Nguyễn Thị Thanh Nhàn-Nguyễn Khuê-Trần Khuê, Sài Gòn - Gia Định qua thơ văn xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.

Thứ Ba, 12 tháng 4, 2011

Đại Việt sử lược


Một trang Đại Việt sử lược

Đại Việt sử lược còn có tên là Việt sử lược, là một cuốn lịch sử Việt Nam viết bằng chữ Hán của một tác giả khuyết danh, ra đời vào thời nhà Trần. Đây là cuốn sử biên niên thuộc hàng sớm nhất của Việt Nam còn được lưu truyền cho đến nay.

Tác giả và những vấn đề liên quan
Sách An Nam chí lược (Quyển 15) của Lê Tắc (hay Lê Trắc) đời Trần chép (dịch từ chữ Hán):
...Trần Tấn (có bản chép Trần Phổ) được Thái Vương (Trần Thái Tông) dùng làm tả tàng, thăng đến hàn trưởng, từng làm (tác) sách Việt chí...Lê Hưu (tức Lê Văn Hưu, 1230 - 1322) là người có tài đức, làm phó quan của Chiêu Minh vương (Trần Quang Khải), thăng làm kiểm pháp quan, sửa (tu) Việt chí.

Theo đó và một số tài liệu khác, hai nhà sử học là Yamamoto Tatsuro (người Nhật Bản) và Trần Kính Hòa (người Hồng Kông) [1] cho rằng có khả năng Lê Văn Hưu đã dựa vào Việt chí để soạn lại thành Đại Việt sử ký.

Đồng quan điểm này còn có hai nhà nghiên cứu người Xô viết (cũ) là P.V. Pozner và A.B. Poljakov. Lược kể theo A.B. Poljakov:
"Vào khoảng các năm 1127 - 1140, sử thần nhà Lý là Đỗ Thiên đã soạn ra bộ "sử ký" chép bao quát toàn bộ lịch sử nước Việt từ thời thượng cổ đến cuối triều Lý Nhân Tông (1127). Bộ sử này mang đậm tính chất truyền thống sử học Phật giáo.
"Sau đó, vào khoảng năm 1223 - 1240, sử thần nhà Trần là Trần Phổ [2] đã hiệu đính lại tác phẩm này thành hai quyển I và II, đồng thời chép tiếp về nhà Lý, làm thành quyển III.
"Tác phẩm mới gồm 3 quyển này được gọi là Việt sử lược, chịu sự ảnh hưởng nhất định của Nho giáo, điều đó đặc biệt thấy rõ ở quyển III, là quyển do Trần Phổ biên soạn. Cuối cùng, trong khoảng năm 1377 - 1388, bộ Việt sử lược được Trần Phổ (hoặc một người khác) bổ sung thêm phần thế phổ nhà Trần (phụ bản), rồi đổi tên nó thành Đại Việt sử lược" [3].

Sau đó trải bao binh lửa, Đại Việt sử lược bị thất truyền. Mãi đến thời Càn Long (trị vì: 1736 - 1795), sách mới được tìm thấy trong Khâm định tứ khố toàn thư của triều Thanh ở Trung Quốc. Để bổ cứu cho phần ngoại truyện của Tống sử và Nguyên sử, một nhà học giả đời Thanh là Tiền Hy Tộ (người Kim Sơn, nay thuộc tỉnh Giang Tô) đã tiến hành hiệu đính, cho khắc in, rồi đưa sách vào Tứ khố, nhờ vậy mà Đại Việt sử lược còn tồn tại cho đến ngày nay.

Cũng theo nhà Việt Nam học A.Pol jakov, năm 1272, sử thần Lê Văn Hưu đã tiến hành xử lý lại toàn bộ công trình của Đỗ Thiên - Trần Phổ theo quan điểm của Nho giáo, và loại bỏ đoạn cuối viết về thời gian trị vì của Lý Chiêu Hoàng. Sau đó, nó trở thành bộ sử chính thống đầu tiên có tên gọi là Đại Việt sử ký. Nhưng không may mắn như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký đã bị thất lạc và hiện nay chỉ còn lưu lại từng đoạn trong Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần nhà Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên.

Tuy nhiên, những lý giải trên không đủ thuyết phục một số nhà nghiên cúu Việt Nam, trong đó có GS. Trần Quốc Vượng [4] và GS. Trần Văn Giáp. Sau khi dẫn chứng, GS. Trần Văn Giáp có ý kiến đại ý như sau:
"Nói Lê Văn Hưu là tác giả bộ chính sử thứ nhất của Việt Nam vẫn là đúng đắn....Trước Đại Việt sử ký của ông, vẫn chưa có sách nào gọi là chính sử. Sách của Trần Chu Phổ có lẽ là sách Việt sử lược hay Đại Việt sử lược, cũng chỉ được coi như loại sách sử riêng, làm xong sau sách của Lê Văn Hưu, không được triều đình công nhận là chính sử chăng, nên không được phổ biến (có lẽ vì thế mà Ngô Sĩ Liên không nhắc đến hay dựa vào). Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới là giả thuyết thôi" [5].

Gần đây, sau khi phát hiện gia phả họ Trần ở Hà Tĩnh và công bố của PGS. TS. Trần Bá Chí (giáo sư đã căn cứ vào Quan du tạp lục của Nguyễn Hoằng Nghĩa [6] để chứng minh giả thuyết), thì một số nhà nghiên cứu Việt Nam lại nghiên về phía: tác giả Việt sử lược chính là Sử Huy Nhan (? - 1421), người làng Ngọc Sơn (nay thuộc xã Đức Thuận huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ Trạng nguyên năm Quý Mão (1363), viết Việt sử lược vào đời Trần Duệ Tông (1373 - 1377). Ông vốn họ Trần, nhưng giỏi sử nên được vua Trần đổi sang họ Sử. Nếu tin theo đây, thì Đại Việt sử lược là sách có sau.

Vì chưa đạt được sự đồng thuận về tác giả, về thời điểm ra đời của Đại Việt sử lược, nên phần nhiều các sách hiện nay đều ghi là “khuyết danh” và là sách thuộc đời Trần.

Cấu trúc và giá trị
Đại Việt sử lược gồm ba quyển và một phụ bản:

Quyển I chép các việc từ thượng cổ đến hết nhà Tiền Lê (tức đến năm vua Lê Ngọa Triều mất, 1009).
Quyển II chép các việc nhà Lý, từ Lý Thái Tổ (trị vì: 1009 - 1028) đến Lý Nhân Tông (trị vì: 1072 - 1127).
Quyển III chép tiếp về nhà Lý, từ Lý Thần Tông (trị vì: 1127 - 1138) đến Lý Huệ Tông (trị vì: 1211 - 1224).
Phụ bản chép niên hiệu các vua nhà Trần.

Nói về giá trị của sách, GS. Nguyễn Khắc Thuần viết:
..."Đại Việt sử lược" là một trong những tác phẩm xuất hiện sớm nhất của lịch sử học Việt Nam...Dẫu nhìn từ bất cứ góc độ nào thì "Đại Việt sử lược" vẫn là một cuốn sách quý. Đọc "Đại Việt sử lược", không những bạn sẽ hiểu được diện mạo kinh tế và xã hội cũng như thế thứ các đời, không những hiểu được đặc trưng văn hóa dân tộc với nhiều thành tố phong phú khác nhau, mà còn hiểu được quan hệ bang giao của đất nước với các quốc gia trong khu vực...đã diễn ra trước triều Trần...[7]

Thông tin thêm
Trước khi đem khắc in, học giả Tiền Hy Tộ đã tiến hành hiệu đính, cho đổi tên sách là Việt sử lược, gọi nước Đại Việt là An Nam, đồng thời viết bài Tựa cho bộ sách, mà GS.TS. Trần Ngọc Thêm đã phê là có giọng điệu "thiên triều".
Trích một đoạn trong bài Tựa (dịch từ chữ Hán):
...Nước An Nam từ đời nhà Tống trở về sau, vẫn giữ lệ cống. Vậy mà dám nhân lúc triều trước (ý nói các triều đại bên Trung Quốc) loạn lạc, không ai chế ngự mới bèn chiếm trộm đế hiệu, lại còn ghi rõ trong sử sách để tự khoe khoang, càn quấy, thật là điều trái lẽ...Tuy vậy, các vua Ngô, Sở tiếm hiệu, kinh Xuân Thu đã chê (nhưng) mà nhà viết truyện cũng không bỏ mất sự thật của nó.
Cho nên dựa vào ngụy sử (ý nói Đại Việt sử lược), theo lệ mà chép là để cho rõ cái tội của nó, và cũng để bổ cứu cho phần ngoại truyện của Tống sử và Nguyên sử hiện chưa đầy đủ....

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Yamamoto Tatsuro, "Việt sử lược và Đại Việt sử ký" đăng trên Đông Dương học báo, tháng 4 năm 1932, tr. 62-63.
Trần Kính Hòa, Đại Việt sử ký chí soạn tu dữ truyền bản. Dẫn lại theo Phan Huy Lê (Bài khảo cứu in ở đầu bản dịch bộ Đại Việt sử ký toàn thư), tr. 17.
[2] Tra trong Đại Việt sử ký toàn thư, thì thấy đời Trần Thái Tông có viên quan tên là Trần Chu Phổ thi đỗ đệ tam giáp năm 1232, đến năm 1251 làm sử quan...Theo GS. Phan Huy Lê và GS. Trần Văn Giáp thì rất có thể Trần Tân hay Trần Phổ chính là ông này (Phan Huy Lê, "Bài khảo cứu" in ở đầu bản dịch bộ Đại Việt sử ký toàn thư, tr. 14; và Trần Văn Giáp (Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tr. 51).
[3] Lược kể theo Lời giới thiệu sách Đại Việt sử lược (bản do Nguyễn Gia Tường dịch) của GS. TS Trần Ngọc Thêm.
[4] GS. Trần Quốc Vượng trong lời giới thiệu bản dịch Việt sử lược của mình, đã nói rằng ông chỉ coi "sách này là bản tóm tắt của Đại Việt sử ký", có nghĩa Việt sử lược là sách có sau (tr. 6).
[5] Xem chi tiết trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tr. 49-54.
[6] Nguyễn Hoằng Nghĩa (1785 - ?), là người xã Hoàng Hà, tổng Hạ Nhất, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Thạch Hà, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1835) năm Minh Mạng năm thứ 16, làm quan trải đến chức Hàn lâm viện Biên tu, Thự Tri phủ Tĩnh Gia (Thanh Hóa).
[7] Trích Lời bạt in cuối sách Đại Việt sử lược (bản dịch của Nguyễn Gia Tường, tr. 307-308).

Sách tham khảo:
-Khuyết danh, Đại Việt sử lược (Nguyễn Gia Tường dịch, Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
-Khuyết danh, Việt sử lược (Trần Quốc Vượng dịch và chú giải). Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960.
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (Tập I, bản dịch). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.
-Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.

Núi Nhạn ở Phú Yên


Núi Nhạn bên sông Đà Rằng

Núi Nhạn, còn gọi là núi Nhạn Tháp, núi Bảo Tháp, núi Tháp Dinh hay núi Khỉ; là ngọn núi nhỏ nằm giữa đồng bằng Tuy Hòa, trên bờ bắc sông Đà Rằng, thuộc phường I, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Việt Nam.

Núi Nhạn cao khoảng 60 mét so với mặt nước biển, có đường chu vi quanh núi khoảng trên 1 km. Núi tuy nhỏ, nhưng vì có tháp cổ ở trên nên vẫn có tên trong địa chí nhà Nguyễn.

Trước đây, trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng; có nhiều loài chim như nhạn (vì thế có tên núi Nhạn), cò và rất nhiều khỉ (nên núi còn được gọi là núi Khỉ). Sau, khoảng năm 1961, vì nhu cầu quân sự, cây cối bị đốn chặt để xây dựng đồn bốt, nên khỉ và chim cũng dần bỏ đi nơi khác.

Ngày nay, đứng trên đỉnh núi Nhạn, người ta có thể thấy bao quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hòa, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia, biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua sông Đà Rằng.

Tên gọi, truyền thuyết
Về tên gọi chính thức (núi Nhạn), có ba giả thuyết. Một là, do núi có hình thế như con chim nhạn xòe đôi cánh, với phần đầu là chỗ giao nhau giữa Quốc lộ 1A và sông Chùa, cổ thon nhỏ lại rồi phình to ra như đôi cánh chim ở phần đường Tản Đà. Hai là, vì ngày xưa núi này có loài nhạn đến ở. Và ba là, vì ngôi tháp cổ trên núi nhìn từ xa giống như con chim nhạn.

Về quá trình hình thành núi Nhạn, truyền thuyết kể rằng, thuở xa xưa đất Tuy Hòa là một vùng đầm lầy trũng thấp, là nơi cư trú của nhiều loài thủy sinh và thú dữ. Để có chỗ cho dân sinh sống, và cũng để bảo vệ người dân, một ngày kia Trời sai một người khổng lồ xuống gánh đá lấp đầy những vùng trũng, hình thành cả một cánh đồng Tuy Hòa bây giờ. Tuy nhiên, đến khi đổ đá lấn biển, vì muốn sớm về trời, người khổng lồ kia đã gánh nặng gấp hai ba lần. Do đó, trong một lần gánh, chiếc đòn gánh bỗng gãy đôi vì quá nặng, làm rơi xuống cả hai thúng đá, và đó chính là hai cụm núi: núi Nhạn và núi Chóp Chài.

Di tích, tượng đài
Trên đỉnh núi Nhạn có tháp Chăm cổ kính được gọi là Tháp Nhạn. Vì thế, núi Nhạn còn được gọi là núi Nhạn Tháp, núi Bảo Tháp, hay núi Tháp Dinh.

Tháp Nhạn được người Chăm xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Tháp có cấu trúc khối hình chóp vuông vững chắc cao 25m, gồm tất cả 4 tầng thu nhỏ dần khi lên cao. Năm 1988, di tích tháp Nhạn được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp quốc gia.

Ở mạn Đông Nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất. Chùa Hàm Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ. Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Người xưa cho đó là hàm của rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long. Trải qua nhiều mưa bão, đất đá đã chài xuống lấp dần cửa hang.

Năm 1983, một đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã được khởi công trên đỉnh núi Nhạn, và đã hoàn thành năm 2007. Công trình này gồm bảo tàng trưng bày ở bên dưới, phần trên là tháp đài cao 30 mét, tựa lưng vào tháp là cụm tượng đài...

Trong thơ ca
Xưa, vì núi Nhạn có nhiều khỉ và ở cạnh sông, nên có câu ca vừa liên tưởng, vừa hóm hỉnh như sau:
Trông lên hòn núi Nhạn
Đến bên hữu ngạn sông Đà,
Chuông chiều đổi tiếng ngân nga,
Chợt thấy ông Hạng Vũ vịn nhánh đa mà chuyền.
Cô gái đò nhìn xuống nước cười duyên,
Tưởng nàng Ngu Cơ đứng đợi ở miền Ô Giang.

Thời tiền chiến, nhà thơ Trường Xuyên đi qua đấy, chợt chạnh lòng có thơ rằng:
Sông Đà mây nước trôi ngày tháng,
Chia biệt còn lưu mấy nhịp cầu.
Dưới nguyệt đi về thương bóng lẻ,
Ngùi ngùi non Nhạn gió đưa thu.

Ngoài ra, nữ sĩ Mộng Tuyết và nhà thơ Huỳnh Khinh (người Phú Yên) cũng đã có thơ ca ngợi:
Nửa thế kỷ rồi qua Phú Yên
Sông Đà núi Nhạn nước non tiên.
Bài thơ tương thức tình tương ngộ
Trọng nghĩa tư giao quý bạn hiền.
(Mộng Tuyết}
Lên chơi núi Nhạn buổi tà dương
Phong cảnh nhìn xem đẹp lạ thường
Trước mặt mây hồng vờn biển bạc
Sau lưng gác tía gợn tia vàng.
(Huỳnh Khinh)

Ngày nay, cụm thắng cảnh "Núi Nhạn – Sông Đà" đã trở thành biểu tượng của tỉnh Phú Yên.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Nguồn tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam dư địa chí ước biên (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2003, tr. 139.
-Quách Tấn, Bước lãng du, mục "Núi Nhạn Tháp". Nhà xuất bản Trẻ, 1996.
-Mục từ Núi Nhạn trong Từ điển Vietgle.

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

Cột đồng Mã Viện

Cột đồng Mã Viện, theo một số sử cũ, là một cây cột đồng lớn trên có khắc sáu chữ Hán: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gẫy, Giao Chỉ không còn) do viên chỉ huy quân đội nhà Hán là Mã Viện sai làm từ các dụng cụ bằng đồng (trong số đó có trống đồng) thu được của người Việt, và cho dựng sau khi chinh phục được cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng ở Giao Chỉ vào năm 43.

Việc làm này đã được nhiều sử gia Việt Nam và Trung Quốc quan tâm. Tuy nhiên, "cột đồng Mã Viện" có thật hay chỉ là lời truyền, và nếu có thì nó được dựng ở nơi đâu, vẫn là vấn đề chưa có kết luận thỏa đáng.


*
Theo sách Thủy Kinh chú sớ của Lịch Đạo Nguyên, thì: Mã Văn Uyên (Mã Viện, tên tự là Văn Uyên) đã cho dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc ngày nay. Mốc đồng ấy tức là cột đồng. [Dẫn lại theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Tiền biên, Quyển 2, tờ 82 và 83].

Tương tự, sách Đại việt sử lược, là quyển sử thuộc hàng xưa nhất ở Việt Nam, cũng chép rằng: (Kiến Vũ) năm thứ 19 (tức năm 43), Trưng Trắc càng nguy khổn bèn trốn chạy, bị Mã Viện giết...(Sau đó) Mã Viện dựng trụ đồng làm ranh giới cuối cùng (của nhà Đông Hán) [bản dịch, tr. 40].

Gần đây trong Việt Nam sử lược [tr. 49], sử gia Trần Trọng Kim cũng nhắc lại chuyện cột đồng, nhưng giống như Đại việt sử lược, tác giả không cho biết vị trí dựng cột, trích: Mã Viện đánh được Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ về thuộc nhà Hán như cũ,...Đem phủ trị về đóng ở Mê Linh, và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới.

Theo đó, "cột đồng Mã Viện" là có thật. Tuy nhiên, chỗ dựng thì cả ba sách đều biên chép khá mơ hồ. Tra trong các sách sử khác thì thấy có hai luồng ý kiến như sau:

Dựng ở Khâm Châu
Sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi đời Tống (Trung Quốc) và An Nam chí lược của Lê Tắc đời Trần (Việt Nam), đều chép Cột đồng Mã Viện được dựng ở vùng hang động Cổ Sâm (có sách ghi là Cổ Lâu) thuộc Khâm Châu (trước thuộc Quảng Đông, nay thuộc Quảng Tây), Trung Quốc.

Đến cuối thế kỷ 17, sử thần Ngô Sĩ Liên trong bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư của mình, cũng ghi là cột đồng tương truyền dựng ở trên động Cổ Lâu, thuộc châu Khâm [Ngoại kỷ, Quyển III. Bản dịch trang 147].

Sau, một số sách cũng cho biết tương tự:
Sách Đại Thanh nhất thống chí đời Thanh chép: Tương truyền (cột đồng) ở về động Cổ Sâm thuộc châu Khâm, Mã Viện có thề rằng: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt", nghĩa là "Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt", nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Đó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gẫy...

Sách Đại Minh nhất thống chí đời Minh chép: Cột đồng dựng ở động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu, (nói) cột đồng Mã Viện dựng trên đất Giao Chỉ là chuyện hão huyền .

Tuy nhiên, chỉ có từ điển Từ Hải (Trung Quốc) là chỉ khá rõ nơi dựng cột, đó là núi Phân Mao [1] ở động Cổ Sâm. Theo Gia Khánh trùng tu nhất thống chí đời vua Gia Khánh nhà Minh, núi Phân Mao ở về phía tây Khâm Châu. Năm 1540, Mạc Đăng Dung cắt đất hiến cho nhà Minh nên từ đấy núi Phân Mao thuộc về đồ bản nhà Minh.

Dựng ở Lâm Ấp
Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Tiền biên, Quyển 2, tờ 82 và 83) của Quốc sử quán triều Nguyễn, đã cung cấp một số thông tin như sau:
-Theo Tùy sử, tướng Lưu Phương khi đi đánh Lâm Ấp [2], qua cột đồng của Mã Viện, đi về phía nam 8 ngày thì đến quốc đô Lâm Ấp. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806 - 820) đời Đường, An Nam đô hộ là Mã Tổng lại lập hai cột đồng ở chỗ Mã Viện dựng cột đồng trước, để tỏ ra mình là dòng dõi con cháu Phục Ba (Mã Viện).
-Theo sách Thông điển của Đỗ Hữu, từ nước Lâm Ấp đi về phía nam, đi thủy, đi bộ hơn hai nghìn dặm đến đấy có nước Tây Đồ Di là chỗ Mã Viện dựng hai cột đồng để nêu địa giới đấy.
-Theo Tân Đường thư, ở châu Bôn Đà Lãng của Lâm Ấp, phía nam là năm bãi lớn, có núi "cột đồng" (đồng trụ sơn), hình núi như cái lọng dựng nghiêng, về phía tây có nhiều núi đá, phía Đông là biển lớn. Cột đồng đó là do Mã Viện dựng lên.
-Theo sách Thái bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống, Mã Viện đi đánh Lâm Ấp, đi từ Nhật Nam hơn 400 dặm đến Lâm Ấp, lại đi hơn 20 dặm nữa có nước Tây Đồ Di. (Mã) Viện đến nước ấy rồi lập hai cái cột đồng ở nơi phân giới giữa Tượng Lâm và Tây Đồ Di. Về đường thủy, đi từ Nam Hải hơn 3000 dặm đến Lâm Ấp, rồi đến cột đồng ở Giao Châu phải 5000 dặm nữa...
Ở Việt Nam, chép cột đồng Mã Viện dựng ở Lâm Ấp có Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và Nghệ An thi tập của Bùi Huy Bích.

Dựng ở núi Thành (Nghệ An)
Trong bài "Les colonnes de broze de Ma Vien" đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hue ngày 10 tháng 11 năm 1943, học giả Đào Duy Anh cho rằng chuyện cột đồng là có thật và có lẽ nó được dựng ở núi Thành (tức núi Lam Thành hay núi Đồng Trụ, tên chữ là Hùng Sơn) ở Nghệ An. Và ông tin tưởng lời phán đoán của mình là đúng vì nó gần ăn khớp với sự ghi chép của sách Ngô lục và Tùy thư.

Bị bác bỏ
Theo sách Thông điển và Tân Đường thư ở đời Đường, thì cột đồng Mã Viện có thể ở chỗ núi Thạch Bi (nay thuộc Phú Yên). Đề cập đến vấn đề này, sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Tiền biên, Quyển 2, tờ 83) thời Nguyễn đã có ý kiến như sau:
...Nay xét dã sử thấy có chép tỉnh Phú Yên có sông Đà Diễn (tục gọi là sông Đà Rằng). Phía Nam sông ấy có bãi lớn. Phía Tây Nam bãi ấy có núi Thạch Bi. Núi này chu vi tới mười dặm, phía Tây tiếp Đại Lĩnh, nhiều rặng trùng điệp, phía đông ra mãi bờ biển. Trên đỉnh núi ấy có một phiến đá trơ trọi cao hình như bị chẻ dọc. Theo lời ghi chép trong các sách Thông điển, Đường thư, ngờ rằng cột đồng có thể ở chỗ ấy. Chỉ có một điều, một phiến đá trơ trọi ở trên đỉnh núi ấy, cao chừng 10 trượng, rộng tới 6,7 trượng. Nhân dân ở quanh núi ấy nói rằng phiến đá ở trên đỉnh núi là một chỏm đá tự nhiên, không phải của ai lập thành cả. Vậy e rằng ta không thể bảo đấy là cột đồng....

Năm 1908, sách Đại Nam dư chí ước biên ra đời (do Cao Xuân Dục làm Tổng tài) cũng bác bỏ thuyết trên, trích:
...Truyện Hoàn Vương trong Đường thư chép: "Lâm Ấp vương chạy tới Đại phố, phía nam Đà Châu, ở đó có núi Đồng Trụ. Mã Viện đời Hán dựng cột đồng ở đó". Nhưng xét truyện Mã Viện thì ông chưa từng tới Phú Yên. (Vậy) đó chỉ là lời thêm thắt [bản dịch, tr. 139].


Xét khía cạnh khác, là mặc dù các sử cũ ở bên trên đều cho rằng việc Mã Viện dựng cột đồng là có thật, nhưng tra trong Hậu Hán thư (chương nói về tiểu sử của Mã Viện) và Hậu Hán ký đều không thấy nói đến. Có lẽ vì vậy, nhà nghiên cứu Henri Maspéro trong phần biên khảo về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã không hề nhắc đến những cây cột đồng, mà cũng chẳng có lời phủ nhận về sự hiện hữu của chúng [bài viết trong tập XVIII, số 3 năm 1918 của bộ tập san Bulletin de l'EFEO].

Đến năm 1941, một phụ tá của Trường Viễn Đông Bác Cổ là Nguyễn Văn Tố, sau khi ra công truy tầm, đã bác bỏ hẳn chuyện Mã Viện sai dựng cột đồng vì cho rằng nó chỉ là một giai thoại. Và ông còn đề nghị là "không nên chép chuyện này vào sách sử, vì không có chứng cớ chính xác" [theo bài viết của Nguyễn Văn Tố trên báo Tri tân số 14 phát hành ngày 12 tháng 9 năm 1941].

Năm 1977, sau khi tìm hiểu, GS. TS. Trương Hữu Quýnh cũng đã có ý kiến như sau:
...Nhiều nhà nghiên cứu, nhà chính trị Trung Quốc ở thế kỷ sau đã nhiều lần tìm lại dấu vết cột đồng Mã Viện mà không thấy. Họ cho rằng cột đồng đã bị đá bồi lấp mất hay bị nước biển cuốn đi. Thực ra, theo nhà nghiên cứu sau này, cột đồng và câu chuyện về cột đồng của Mã Viện đều là chuyện đặt thêm... [Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ X), tr. 76].

Tương tự, trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam có đoạn viết:...Trên thực tế, không tài liệu nào chứng minh rõ ràng được sự tồn tại của cột đồng này.

Gần đây, trong các bộ sử của Việt Nam, như Đại cương lịch sử Việt Nam của nhóm Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh; Đại cương lịch sử Việt Nam của nhóm Trương Hữu Quýnh - Phan Đại Doãn - Nguyễn Cảnh Minh,....đều không nhắc đến chuyện cột đồng Mã Viện.

Tuy nhiên, vẫn có người tin rằng chuyện "cột đồng Mã Viện" là có thật, bởi trong lịch sử Trung Quốc việc dựng cột để ghi công sau một cuộc viễn chinh là chuyện thường thấy. Sau Mã Viện, những tướng khác như Hà Lý Trinh, Trương Chu và Mã Tống thuộc đời Đường; Mã Hy thuộc đời Hậu Tấn cũng đã dựng cột đồng ở các xứ phía Nam .

Trong văn học Việt
Khoảng năm 1789, Vũ Huy Tấn được vua Quang Trung cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Trên đường đi gặp nơi dựng cột đồng, ông xúc cảm làm ra bài thơ:
Vọng đồng trụ cảm hoài
(Trông chỗ cột đồng, cảm xúc)
Dịch nghĩa:
Sáng sớm ra khỏi thành Minh Châu,
Tìm hỏi dấu tích cột đồng.
Người địa phương chỉ tay về phía xa,
Nơi hai đống đá xanh xanh!
Than ôi! Cột đồng kia!
Là đất cũ của nước ta!
Từ thời Trưng Vương buổi trước,
Phục Ba đã vạch làm biên giới.
Bậc phấn son [16] thật cũng anh hùng.
Muôn đời tiếng tăm còn vang dội.
Đáng thương tên gian phu nhúng tay vào vạc,
Cắt đất dâng đi chẳng đoái tiếc gì.
Bờ cõi xưa vì thế luân lạc đi mất,
Đến nay đã hàng mấy trăm năm.
Khói mù cộng với thời gian,
Cảm khái việc xưa nay biết dường nào!
Bên này có núi Phân Mao,
Trời đã làm cho phần Bắc phần Nam bị chia tách.
Chia đã lâu rồi cần hợp lại,
Vết tích lạ này há lại bỏ không.

Trong Nam Phong tạp chí số 8, tháng 2 năm 1918, ở mục Vịnh sử có bài thơ ký tên là Vô danh thị, như sau:
Trèo non vượt bể biết bao công,
Một trận hồ Tây chút vẫy vùng.
Quắc thước khoe chi mình tóc trắng,
Cân thoa đọ với gái quần hồng.
Gièm chê đã chán đầy mâm ngọc,
Công cán ra chi mấy cột đồng.
Ai muốn chép công ta chép oán,
Công riêng ai đó oán ta chung.

Thông tin liên quan
Một số triều đại phong kiến ở Trung Quốc đã tỏ ra khá quan tâm về chuyện cột đồng Mã Viện. Trích trong sử cũ Việt Nam:
-Mùa hạ, tháng 4 năm Nhâm Thân (1272), sứ nhà Nguyên là Ngột Lương sang hỏi giới hạn cột đồng cũ. Vua (Trần Thánh Tông) sai viên ngoại lang Lê Kính Phụ đi hội khám. (Phụ) trở về nói rằng, cột đồng Mã Viện dựng lâu năm đã bị may một, không còn tung tích gì [Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Quyển V, bản dịch, tr. 37].
].
Tháng 8 năm Ất Dậu (1345), sứ nhà Nguyên là Vương Sĩ Hành lại sang hỏi việc cột đồng. Vua Trần Dụ Tông sai Phạm Sư Mạnh đi sang biện luận việc này. Từ bấy giờ trở đi không thấy nhắc nhở đến việc này nữa. Rồi sau đời Trần, nhà Minh chiếm nước Việt được 14 năm, họ cũng không tìm thấy dấu tích gì về đồng trụ [Việt sử tân biên (Tập I), tr. 193].

Rất có thể, đây chỉ là cái cớ để họ hạch sách người Việt.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Theo Đại Thanh nhất thống chí (tức bộ địa dư đời nhà Thanh), núi Phân Mao ở động Cổ Sâm, cách Khâm Châu khoảng 3 dặm về phía tây. Tương truyền trên đỉnh núi Phân Mao có thứ cỏ tranh, do ảnh hưởng của khí hậu và địa thế, ngọn cỏ tranh ngả theo hai hướng Bắc và Nam cho nên mới có tên gọi là núi Phân Mao, nghĩa là núi có thứ cỏ chia ra làm hai hướng...
[2]Lâm Ấp (lược kể): Năm 192, Khu Liên, con trai của Công Tào huyện Tượng Lâm (huyện cực Nam của quận Nhật Nam, tương đương với Khánh Hòa-Phú Yên hiện nay) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân, giết chết quan huyện lệnh Tượng Lâm, thành lập vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ ban đầu của Lâm Ấp là Tượng Lâm cũ, sau phát triển ra các vùng Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam ngày nay. Kinh đô đầu tiên của Lâm Ấp ở Khánh Hòa, quốc vương đầu tiên là Khu Liên. Cư dân của vương quốc này là Chăm Pa, được phát triển từ cư dân bản địa, vốn là chủ nhân từng sáng tạo ra văn hoá khảo cổ học Sa Huỳnh, tức là cư dân Việt Cổ chịu ảnh hưởng của cư dân Ấn Độ từ đầu Công Nguyên.

Vương quốc Lâm Ấp tồn tại tương ứng với bốn triều đại đầu tiên của dân tộc Chăm Pa với 26 đời vua, từ năm 192 đến năm 758. Tên nước Lâm Ấp được nhắc đến từ thời Hậu Hán (Tấn thư, Lâm Ấp truyện)...Theo Trần Trọng Kim, thì nước Lâm Ấp chính là Chiêm Thành sau này (Việt Nam sử lược, tr. 55).

Sách tham khảo:
-Khuyết danh, Việt sử lược (bản dịch của Nguyễn Gia Tường). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (Quyển I, bản dịch). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Tiền biên, Quyển 2). Bản điện tử trên website Việt Nam thư quán.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm chủ biên), Đại Nam dư địa chí ước biên (TS. Hoàng Văn Lâu dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2003.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Tập I). Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, giấy phép xuất bản tháng 3 năm 1968.
-Trương Hữu Quýnh, Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ X). Nhà xuất bản Giáo dục, 1977.
-Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập I). Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983.

Ảnh: Tượng Mã Viện tại núi Phục Ba, Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2011

Sơn cư tạp thuật

Sơn cư tạp thuật, còn có tên là Sơn cư tạp chí, là một tác phẩm dã sử viết bằng chữ Hán do Đan Sơn (? - ?) biên soạn vào những năm quân Tây Sơn ra Bắc Hà diệt chúa Trịnh (khoảng 1786 - 1789), tức ở cuối thế kỷ 18 thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.

1. Hoàn cảnh ra đời:
Trong bài Tựa ghi ở tập đầu bộ Sơn cư tạp thuật, Đan Sơn đã nói rõ vì sao có tác phẩm, sau đây là đoạn trích (dịch từ chữ Hán):
...Tôi ở trọ ở Đan Sơn đã tám năm, gặp khi cuộc đời biến đổi, mưu tính tránh xa mà chưa kịp. Không bao lâu, loạn lạc khắp nơi, góc biển bên trời, không một chỗ nào yên ổn.
Các sách vở của ông cha để lại cho, mười phần mất đến bảy tám phần. (Tôi) tạm ở nơi lẻ loi, âm thầm buồn bã, ngắm cảnh giang sơn, cảm thấy vô cùng nhớ quê; trời xanh vòi vọi, lòng lo đau đáu, tôi tự tìm cách giải khuây mà chưa biết làm gì. Một hôm sự nghĩ người xưa có câu: “Gặp thời loạn ly, đọc sách là hơn cả”, tôi mới lấy sách làm bạn...
...Đọc sách cổ mà nghĩ chuyện nay, hoặc nghe chuyện nay mà nhớ lại sách cổ. Mỗi khi thu hoạch điều gì, lấy bút ghi lại, tuy việc nọ việc kia lộn xộn, không có thứ tự, mỗi ngày tích lại, họp thành một số quyển. Cố nhiên, mấy quyển này cũng không dám cốt cho mọi người coi, để ở trên bàn cùng đọc tiêu khiển. Nhỡ ra, ai thấy mấy quyển ấy, mong chữa sửa lại cho, thật là may mắn và tạ ơn vô cùng...


2. Về tác giả:
Hiện vẫn chưa rõ tên thật, thân thế và sự nghiệp của Đan Sơn. Đây chỉ là địa danh nơi tác giả ẩn cư, theo đó làm tên hiệu cho mình. Ngoài ra, tác giả còn có một biệt hiệu nữa là Tùng Kinh.

Đan Sơn là người ở làng Lam Kiều (cạnh làng Bột Thượng là quê của Nguyễn Quỳnh, tục gọi là Trạng Quỳnh), huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Ông sinh vào thời vua Lê Ý Tông (ở ngôi: 1735 - 1740). Khi quân Tây Sơn ra Thăng Long dẹp Trịnh (1786), tác giả đang ở Đan Sơn (một làng ở huyện Đan Phượng, Hà Tây; nay thuộc Hà Nội), rồi ẩn cư luôn tại đấy. Trong thời kỳ này, ông viết Sơn cư tạp thuật.

Theo PGS. TS. Nguyễn Đăng Na, thì Đan Sơn còn là tác giả Đan Sơn thi tập và Tham khảo tạp ký, mà có người hiểu lầm là do Phạm Đình Hổ soạn [1].

3. Về tác phẩm:
Sơn cư tạp thuật là một tác phẩm cùng loại và cùng thời với Lữ trung tạp thuyết của Bùi Huy Bích, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.

Sơn cư tạp thuật có 3 quyển, gồm 184 thiên (truyện) [2]. Trong đó có một số truyện do Đan Sơn viết, và ông đã ghi lại khá trung thực những điều mắt thấy tai nghe cũng như những sở đắc của mình khi đọc sách. Có một số truyện, ông chép từ các sách khác, như: Công Dư Tiệp ký (Vũ Phương Đề), Tục Tiệp ký (Trần Tiến), Diễn Trai tập (Lê Dĩnh), Kiên biều tập (Chử Nhân Hoạch), v. v...

Trong Sơn cư tạp thuật có những truyện đáng chú ý và rất có ích cho sử học, như truyện: Hưng Đạo Vương giáo trung thư, Thái giám Nguyễn An, Thăng Long thành, Man Liêu phong tục, Thi pháp, Học thuật, Đào kép, Sư chùa núi Yên Tử (Huyền Quang), Sứ giả phương Bắc, Nữ hóa nam, v.v...

Hiện trong Thư viện Khoa học xã hội (Hà Nội) còn lưu giữ được bản chép tay Sơn cư tạp thuật mang ký hiệu A.822, và ở Thư viện Khoa học (Hà Nội) cũng có một bản chép tay khác có tên là Sơn cư tạp chí mang ký hiệu VHv. 1835.

4. Điểm nổi bật:
4.1 Là tác phẩm đầu tiên có truyện nói về vấn đề “chuyển đổi giới":
Trong cuộc Hội thảo về Giới trong Văn học và Ngôn ngữ học đã được tổ chức tại Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Ths. Nguyễn Văn Tùng cho biết tác phẩm văn học sớm nhất đề cập đến hiện tượng “chuyển đổi giới tính” có lẽ là Sơn cư tạp thuật của Đan Sơn (cuối thế kỷ 18).
Trích một đoạn trong truyện Nữ hóa nam:
Trong niên hiệu Bảo Thái (1720 – 1729) ở nước ta, một người đàn bà là Thị Viết ở xã Mộc Nhuận, huyện Đông Sơn (nay là xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa), là vợ ưu binh, đẻ được hai đứa con, rồi ốm liệt hơn một năm. Bỗng một hôm, người đàn bà này sưng đau ở bộ phận sinh dục, rồi hóa thành hình nguời đàn ông. Vì cha mẹ chị ta sinh toàn con gái, nên chị ta xin quan cho trở về phía cha mẹ để nối dõi tông đường. Quan trên sau khi khám nghiệm xác thực đã chuẩn y lời thỉnh cầu của chị ta....

4.2 Là tác phẩm phản ánh sự thắng thế của dục vọng:
Không như Tổ gia thực lục và một số sách thiền sử khác, trong truyện "Sư chùa núi Yên Tử", người kể cho rằng sư Huyền Quang đã thông dâm với Thị Bích. Trích một đoạn:

..."Đêm đó vào quãng canh ba, trăng vằng vặc chiếu, gió thông lùa bức rèm lay động. Lúc ấy Huyền Quang chưa ngủ. Nhà sư dạo gót ngoài thềm chợt thấy quần lụa (của Thị Bích) trễ xuống gần nửa, để lộ thịt da tuyết trắng. Chẳng nở lòng nhìn, Huyền Quang bỏ đi.
Trăng tà lặn dần xuống thấp, bóng trúc che khuất cửa. Huyền Quang quay về tăng phòng. Nhưng khi tới cửa phòng thì nhà sư nhìn thấy quần hồng của Thị Bích đã tụt hẳn xuống. Thế là lòng thiền xao động, không thể kìm giữ được nữa...Song, Thị Bích không nghe cương quyết cự lại. Lửa dục trong lòng nhà sư bùng lên dữ dội, chàng bèn lấy cả số vàng được nhà vua ban tặng đưa ra cho Thị Bích rồi thông dâm cùng nàng".
..
..

Khi giới thiệu truyện này, Thạc sĩ Đỗ Thu Thủy có kèm theo lời bình như sau:
"Câu chuyện phản ánh sự thắng thế của dục vọng trần tục trước những lý tưởng cao siêu mà xa vời, của phần đời với phần đạo….Cảm hứng bao trùm của câu chuyện, vì thế, là cảm hứng ngợi ca những niềm vui trần thế, là tiếng cười sảng khoái của tác giả khi phát hiện ra “gót chân Asin” của một thần tượng tôn giáo với ý niệm cảm thông hơn là phê phán.
"...Điều này minh chứng cho xu thế vận động, phát triển của văn học trung đại nói chung, của văn xuôi tự sự nói riêng qua gần 4 thế kỷ. Đó là quá trình dịch chuyển từ văn học chức năng, coi trọng mục đích truyền đạo, giáo huấn hướng tới sáng tạo nghệ thuật đích thực, coi trọng việc miêu tả, khám phá và tái hiện một cách chân thực bức tranh về đời sống, về con người"... [3]

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] PGS. TS. Nguyễn Đăng Na giải thích: Trong Tham khảo tạp ký ghi rõ năm hoàn thành là “Hoàng triều Cảnh Hưng, Đinh Dậu” (1777). Lúc đấy Phạm Đình Hổ chỉ mới 9 tuổi (ông sinh năm 1768), thì không thể viết được sách; còn Đan Sơn lúc bấy giờ trên dưới đã 40 tuổi.
[2] Số thiên chép theo PGS. Nguyễn Đăng Na (tr. 405). Theo GS. Trần Văn Giáp thì chỉ có chừng 150 thiên (tr. 1212).
[3] Thạc sĩ Đỗ Thu Thủy, “Về nhân vật Huyền Quang trong văn xuôi tự sự thời trung đại” đăng trên báo Quân đội nhân dân. Bản điện tử [http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/6/33/33/139726/Default.aspx]

Sách tham khảo chính:

-Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Tập 1 và Tập 2 in chung). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
-Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam (Tập Một). Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997.

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2011

Mạ tặc trung vũ hầu Lê Giốc

Lê Giốc hay Lê Giác [1] (? - ?), là người ở làng Kẻ Rỵ, thuộc huyện Đông Sơn; nay là làng Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Ông là con Lê Quát (? - ?), thi đỗ Thái học sinh, làm quan trải đến chức Thượng thư Hữu bật nhập nội hành khiển (tương đương chức Thủ tướng ngày nay).

Làm quan trong thời loạn
Thời vua Trần Nghệ Tông, Lê Giốc làm Tuyên phủ sứ Nghệ An. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 1371 đời vua này, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đã mang quân ra cướp phá kinh thành Thăng Long theo lời cầu cứu của mẹ Dương Nhật Lễ. Vua Nghệ Tông không chống nổi, phải bỏ chạy về Đông Ngàn (nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội).

Sau khi vua Nghệ Tông nhường ngôi cho Trần Duệ Tông, năm 1376, Duệ Tông hăng hái đi đánh Chiêm, nhưng vì chủ quan, bị mắc mưu vua Chiêm là Chế Bồng Nga nên bị tử trận ở thành Đồ Bàn. Một hoàng thân là Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng vua Chiêm.

Vua Trần Nghệ Tông liền lập con của Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi, tức là Trần Phế Đế. Phế Đế ít tuổi nên mọi việc đều do thượng hoàng Nghệ Tông quyết định.

Năm 1377, người Chiêm đưa Trần Húc đã đầu hàng đến Nghệ An tiếm xưng ngôi vua. Tháng 6 (âm lịch) năm 1378, quân Chiêm đánh vào sông Đại Hoàng [2]. Hành khiển Đỗ Tử Bình được sai đi chống giữ, bị thua trận. quân Chiêm liền đánh vào kinh thành Thăng Long, bắt người cướp của rồi rút về...

Bị bắt, không ngớt mắng chửi quân thù
Lúc bấy giờ Lê Giốc đang giữ chức Kinh doãn tại kinh thành, bị quân Chiêm bắt được.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép:
...Nhiều người theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo lạy, ông cả giận nói: Tao là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man à? (Rồi) chửi không ngớt miệng, bị giặc giết. Việc đó đến triều đình, truy tặng (ông) là Mạ tặc trung vũ hầu (nghĩa là Ông hầu trung dũng chửi giặc).

Nhà sử học đời Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên đã khen ngợi Lê Giốc như sau:
Bỏ sống để giữ nghĩa còn hơn là sống, cầu sống mà chịu nhục người quân tử không làm. Kinh Dịch nói: Người quân tử thà hy sinh tính mạng để thực hiện chí hướng của mình, Giốc là người như vậy (tr. 165).

Đến đời nhà Nguyễn, nhà sử học Phan Huy Chú cũng đã trân trọng xếp Lê Giốc vào nhóm Bảy bề tôi tiết nghĩa đời nhà Trần (tr. 400). Và vua Tự Đức cũng có thơ vịnh Lê Giốc:

Đời mạt văn tàn võ chẳng trau
Quân thua một trận thật là đau
Chỉ đem tấc lưỡi la quân giặc
Để tiếng ngàn thu “Mạ tặc thần”.

Theo một bài viết đăng trên báo Thanh Hóa, thì ở làng Kẻ Rỵ có đền thờ Lê Giốc. Nhân dân ở đây từ lâu đã tôn ông làm Tiên hiền với duệ hiệu là: "Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, Mạ tặc trung vũ hầu Lê tướng công" [3]. Trong đền thờ có đôi câu đối:
Mạ tặc trung thần thanh vạn đại
Thướng thiên ánh tuyết bạch tam quan.

Nghĩa là:
Trung thần chửi giặc tiếng lưu vạn đại
Ánh hào quang trên trời vẫn rọi chiếu cửa đền.

Ngoài ra, theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam thì Lê Giốc còn được sắc phong là phúc thần, và có miếu thờ ở ven sông Đại Hoàng .

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Ghi Chú:
[1] Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch) ghi là Lê Giốc (tr. 400). Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi là Lê Giác (tr. 340).
[2] Sông Đại Hoàng, là khúc sông Hồng chảy qua Hưng Yên và Nam Định; nay là ngã ba Tuần Vương. Địa điểm trước kia vào năm 1285, trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông, quân nhà Trần đã đánh nhau với quân Thoát Hoan.
[3] Theo câu đối này, Lê Giốc thi đỗ Tiến sĩ, nhưng trong các sách dùng để tham khảo đều không thấy chép.

Sách tham khảo:
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 2, bản dịch). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985.
-Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (Tập 1, bản dịch). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.
-Nguyễn Q, Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển lịch sử nhân vật Việt Nam, mục từ “Lê Giác”. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1992.