Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Tư, 6 tháng 10, 2010

Thủ lĩnh kháng Pháp Nguyễn Quang Bích

Nguyễn Quang Bích, còn có tên là Ngô Quang Bích (1832 – 1890); là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại vùng Tây Bắc (Việt Nam).

Ông có tên tự là Hàm Hy, hiệu Ngư Phong, sinh tháng 4 năm Nhâm Thìn (ngày 7 tháng 5 năm 1832) tại làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).

Ông vốn họ Ngô, dòng dõi vua Ngô Quyền và Ngô Từ (khai quốc công thần nhà Hậu Lê, ông ngoại vua Lê Thánh Tông), nhưng do ông nội ông đổi sang họ ngoại là họ Nguyễn nên sử sách thường gọi ông là Nguyễn Quang Bích [1].

Nguyễn Quang Bích là học trò của tiến sĩ Doãn Khuê. Năm 1861, ông đỗ cử nhân và được bổ làm Giáo thụ phủ Trường Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Năm Kỷ Tỵ (1869), thời Tự Đức, ông đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên (tức Hoàng giáp). Sau đó ông được cử làm Tri phủ tại phủ Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ ngày nay), rồi Tri phủ Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa ngày nay) và lần lượt làm Án sát tỉnh Sơn Tây, Tế tửu Quốc tử giám Huế, Án sát tỉnh Bình Định.

Năm Ất Hợi (1875), được vua Tự Đức giao cho duyệt bộ sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Cũng trong năm này, triều đình mở doanh điền Hưng Hóa (tức tỉnh Phú Thọ ngày nay) vừa khai hoang vừa phòng vệ vùng núi rừng Tây Bắc, ông được cử làm Chánh sơn phòng sứ. Đến năm sau (1876) ông kiêm thêm chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa.

Tại đây, Nguyễn Quang Bích phối hợp với Tôn Thất Thuyết, Hoàng Tá Viêm vừa đánh dẹp vừa lôi kéo phân hóa các đội quân người Trung Quốc mà sử cũ gọi là "giặc khách" (tàn dư của các cuộc chống Thanh, nhưng đã biến chất).

Đặc biệt, trong số người mà Nguyễn Quang Bích lôi kéo được có Lưu Vĩnh Phúc, thủ lĩnh đội quân Cờ Đen (dư đảng của Thái Bình Thiên quốc)[2].

Sự nghiệp kháng Pháp:
Ngày 12 tháng 4 năm 1884, thành Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích cai quản bị quân Pháp đánh hạ. Noi gương Tổng đốc Hoàng Diệu, ông định tuẫn tiết, nhưng nhờ quân sĩ phá vòng vây cứ ra[4]. Sau đó, ông thu tàn quân chạy về Tứ Mỹ, tiếp theo là Áo Lộc, rồi lên Tiên Động (nay thuộc huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương) lập căn cứ để kháng Pháp.

Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Cam Lộ (Quảng Trị), ban bố dụ Cần Vương. Biết Nguyễn Quang Bích là người có chí và có tài đức, nhà vua phong ông làm Lễ bộ thượng thư, sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần Trung hầu; lãnh nhiệm vụ tổ chức kháng chiến ở vùng Tây Bắc (Bắc Bộ).

Kể từ đó, với uy tín của mình, ông vừa trực tiếp chỉ huy phong trào, vừa tìm cách liên hệ để phối hợp với các phong trào khác, như của Nguyễn Thiện Thuật, Đèo Văn Trì (thủ lĩnh người Thái), Nông Văn Quang, Cầm Văn Hoan, Cầm Văn Thanh,...Ngoài ra, ông còn lôi kéo được nhiều sĩ phu, tù trưởng và đông đảo người dân (gồm các dân tộc Kinh, Thái, Mường, Mông) trong vùng tham gia chiến đấu hay ủng hộ.

Trong hai năm 1885-1886, ông đã hai lần sang Trung Quốc cầu viện (nhưng việc không thành, vì triều đình nhà Thanh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp), mua vũ khí và phối hợp hoạt động với nhiều nhóm nghĩa quân khác ở Bắc Kỳ.

Cuối năm 1886, Nguyễn Quang Bích trở về nước. Xét thấy địa thế Yên Động khá hẹp, lại bị tàn phá sau mấy trận càn, nên ông và Nguyễn Văn Giáp (tức Bố Giáp, một cộng sự đắc lực) bèn đem quân lên Nghĩa Lộ (trước thuộc châu Văn Chấn, nay là thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái) xây dựng căn cứ mới.

Tháng 4 năm 1888, Soái phủ Nam Kỳ gửi thêm viện binh ra Bắc Kỳ. Ngay sau đó, quân Pháp chia làm hai đạo mở cuộc hành quân lên Nghĩa Lộ. Đạo thứ nhất gồm 400 quân do Thiếu tá Bose chỉ huy, đi từ Ngòi Hút (tức Đại Lịch). Đạo thứ hai gồm 384 quân do Thiếu tá Berger chỉ huy tiến từ Ngòi Lao.

Dọc đường cả hai đạo quân đều chịu thiệt hại nặng vì bị mai phục và dịch bệnh, nên mặc dù chiếm được một số nơi mà vẫn phải triệt hồi.

Cầm cự ở đây thêm ít tháng nữa, thì Nguyễn Quang Bích mang một số quân rời Nghĩa Lộ đến Yên Lập, là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ, để củng cố phong trào kháng chiến tại vùng này. Từ nơi đây, ông đã phái nhiều đạo quân đi đánh phá nhiều nơi.

Công cuộc đang thu được một số kết quả, thì bất ngờ ông lâm bệnh nặng rồi mất tại núi Tôn Sơn, (thuộc xã Mộ Xuân, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ) ngày rằm tháng Chạp năm Kỷ Sửu (5 tháng 1 năm 1890) [3].

Phong trào kháng Pháp ở vùng Tây Bắc (Việt Nam) vì thế bị giảm sút nặng nề sau cái chết của Bố Giáp và ông. Tuy nhiên, công cuộc do hai ông và các đồng đội đã dày công gầy dựng vẫn chưa chấm dứt hoàn toàn mà còn được tiếp tục ở miền hạ lưu sông Đà (nổi bật là cuộc khởi nghĩa Thanh Sơn do Đốc Ngữ làm thủ lĩnh) cho đến năm 1893 mới chấm dứt hẳn.

Sự nghiệp văn chương:
Nguyễn Quang Bích để lại Ngư phong thi tập (Tập thơ Ngư Phong, gồm 97 bài thơ bằng chữ Hán, đủ các loại thể), sáng tác trong những năm ông lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp. Ngoài ra, ông còn có các bài văn và câu đối liễn dùng để điếu các đồng đội đã hy sinh.

Giới thiệu 2 bài thơ ông làm khi đang đi chinh chiến:

1. Hữu chinh mại chi cảm
Kim triêu tiểu trú Quế Sơn bằng,
Khứ tuế kim triêu tại Bản Tăng.
Ưu phẫn nhất tâm đồng bộ uất,
Sơn nham đáo xứ cộng tằng lăng.
Khởi ưng cử thế tư vi quỉ,
Tối hữu ô nhân khả úy dăng.
Cận nhật bất kham tần đối kính,
Minh tu bạch đắc kỷ hành tăng.
Dịch nghĩa:
Cảm xúc về ngày tháng trôi qua
Hôm nay tạm trú trong nhà sàn đất Quế Sơn,
Nhớ lại khi ở Bản Tăng, cũng đúng ngày rày năm ngoái.
Trong lòng buồn bực, ở hai nơi nông nỗi giống nhau,
Đâu cũng núi non, bao lớp đá chập chồng cao ngất.
Nghĩ không lẽ khắp trần đời đều là những hạng tinh ma,
Duy phải tránh xa, rất dơ bẩn đáng khinh là bọn ruồi nhặng.
Gần đây khó chịu không muốn soi gương,
Vì râu tóc mấy chòm đã thấy bạc thêm ít nữa.
2. Quân lương khuyết phạp
Tặc phân mãn địa thái xi trương,
Sổ thập bì sư nhật sách lương.
Bắc địa Nguyên nhung trì nhạn tín,
Vân gian thiều mộng thuộc thiên phương.
Liên sơn thụ ế càm thanh náo,
Bàng giản tuyền u vũ khí lương.
Thê chỉ bất kham trù trướng xứ,
Cù lao kim nhật ký bồng tang.
Dịch nghĩa:
Thiếu lương quân
Khắp nơi, giặc hung bạo như diều hâu giương cánh,
Vài chục toán quân mỏi mệt, hàng ngày phải chạy kiếm lương ăn.
Từ đất Bắc, chậm thấy cánh nhạn đưa tin của Nguyên nhung, [4]

Mơ màng tiếng nhạc thiều trên mây còn ở tận phương trời xa.
Liền núi bóng cây che, tiếng chim kêu rộn rã,
Bên khe dòng suối hơi mưa xuống lạnh.
Điều khiến cho ta ngậm ngùi nhất trong cảnh nương náu này là:
Nhớ ra hôm nay chính là ngày cha mẹ treo cung tên vào cổ ta.
*
Nói về Nguyễn Quang Bích, nhà sử học Phạm Văn Sơn viết:
Khi còn ở quê nhà, Nguyễn Quang Bích đem cái sở kiến và uy tín của mình ra dạy dân đắp đê ngăn nước mặn, lấy thêm đất canh tác cho hai vụ chiêm, mùa. Khi cầm quyền cai trị, ông tthanh trừng được quân cướp bóc, dân địa phương được yên ổn làm ăn, nên họ tôn sùng ông như một vị Phật sống.
Sau này, Lưu Vĩnh Phúc chặt đầu tên tướng cướp thành Hà Nội năm Quí Dậu (1873) là Francis Garnier. Xét ra, cũng có công của ông vì đã biết tài mà tiến cử họ Lưu...
Từ khi Nam triều biết Nguyễn Quang Bích có tài và có tâm với nước, đã luôn cử ông vào nhiều việc khó khăn. Thấy ông có uy tín bao trùm xứ Bắc Kỳ, Pháp cho Bố chính Hưng Hóa Bùi Quang Bích và Tri phủ Lâm Thao Nguyễn Khái Hợp lần lượt tới dụ hàng, nhưng ông đã khẳng khái từ chối. Không lay chuyển được lòng ông, bọn thực dân lại dở trò Tào Tháo bắt mẹ Từ Thứ...Đến nỗi này ông chỉ còn biết gạt nước mắt để tiếp tục kháng chiến. Mẹ ông cũng chẳng nhắn ông ra hàng, thật là đã nêu cao tư cách của phụ nữ Việt Nam…(Lược theo Việt sử tân biên, tr. 212-215).

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
[1] Đến đời con trai của Nguyễn Quang Bích lại lấy lại họ Ngô, gọi là Ngô Quang Đoan.
[2] Theo nhà sử học Phạm Văn Sơn thì:
Biết họ Lưu là một tay hiệt kiệt và có óc bài Pháp nên Nguyễn Quang Bích đã tiến cử họ Lưu về triều đình để phong làm chức Bảo Thắng phòng ngự sứ. Đối lại, Lưu thấy ông có lòng ái quốc nồng nhiệt, sở học lại quảng bác, đạo đức cao nên coi ông vào bậc thầy. Bài thơ “Quá Lưu quân đệ trạch cảm tác” (Cảm tác khi qua nhà ông Lưu Vĩnh Phúc) do Nguyễn Quang Bích làm, đã nói lên phần nào mối giao tình của ông đối với họ Lưu.
[3] Thi hài Nguyễn Quang Bích được binh sĩ chôn cất trên núi Tôn Sơn (hay Tân Sơn). Ba năm sau, con trai ông đến mang di hài ông về chôn tạm ở làng Cát Trù (quê của Đề Kiều); rồi hai năm sau nữa mới chuyển về chôn cất tại quê nhà.
[4] Nguyên nhung ở đây rất có thể chỉ Tôn Thất Thuyết (lúc này ông Thuyết đang sang Trung Quốc cầu viện).

Sách tham khảo chính:
■ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 5, tập trung). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1963.
■ Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam [1858-cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.
■ Lê Tượng-Vũ Kim Biên, Lịch sử Vĩnh Phú. Ty Văn hóa và Thông tin Vĩnh Phú xuất bản, 1980.
■ Nguyễn Huệ Chi, mục từ Nguyễn Quang Bích in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.