Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Hai, 30 tháng 8, 2010

Công thần nhà Lý: Đào Cam Mộc

Đào Cam Mộc (? - 1015) là đại thần nhà Tiền Lê và là đại công thần nhà Lý trong lịch sử Việt Nam.

Đào Cam Mộc, không rõ quê quán và thân thế. Năm 1005, Lê Long Đĩnh giết vua anh là Lê Trung Tông (Lê Long Việt) để lên ngôi. Lúc bấy giờ, Đào Cam Mộc đang làm chức Chi hậu, bèn ngầm liên kết với Sư Vạn Hạnh và mấy đại thần khác chờ cơ hội tôn quan Thân vệ Lý Công Uẩn lên thay.

Đến năm 1009, thì mưu sự thực hiện được, vì vua Lê Long Đĩnh (thụy hiệu là Lê Ngọa Triều) mất mà con trai (tên Sạ) thì còn bé.

Lý Công Uẩn lên làm vua, khai sáng nên cơ nghiệp nhà Lý, đã phong cho Đào Cam Mộc làm Nghĩa Tín hầu và gả con gái là công chúa An Quốc cho. Kể từ đó, Đào Cam Mộc ra sức xây dựng triều chính.

Tháng 6 năm Ất Mão (1015), Đào Cam Mộc mất, Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn) truy tặng ông là Thái sư tước Á vương.

Hiện nay trong nhà Võ Chỉ, ở bên trái Đền Lý Bát Đế, có đặt tượng thờ ba vị, đó là: Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt và Đào Cam Mộc.

*
Đào Cam Mộc là một nhân vật có thật trong lịch sử, là người có công đầu trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngai vàng. Thế nhưng hành trạng của vị này thì sử sách lại chép rất sơ sài, quê quán ở đâu, cha mẹ là ai, con cháu ra sao...đều không thấy. Trước đây, một số nhà nghiên cứu vẫn coi Đào Cam Mộc là người Bắc Ninh, đồng hương với vua Lý. Nhưng tra thần tích 16 xã huyện Tiên Du và 10 xã huyện Từ Sơn đều không thấy nơi nào thờ ông.

Chỉ khi đọc trên tờ báo Thăng Long - Hà Nội văn hiến số 43, xuất bản tháng sáu năm 2007, bài Thái sư Á vương Đào Cam Mộc của Lê Thành Hiểu, mới biết quê nội của ông là làng Tràng Lang, nay thuộc xã Định Tiến huyện Yên Định, Thanh Hóa và quê ngoại là làng Nam Thạch cùng huyện.

Tuy nhiên, ngay ở quê nội và ngoại trên, nhiều người già không hề biết là làng mình có ông Đào Cam Mộc. Chỉ gần đây, nhiều người tìm về hỏi han họ Đào, thế là người hai làng trên đều công nhận sự thể đó.

Có điều là đền thờ (được coi là đền Đào Cam Mộc) ở cả hai nơi trên đều đã bị phá từ lâu, vài năm gần đây mới làm lại và không còn thần tích, thần phả, kể cả bài vị Đào Cam Mộc cũng không có. Ở quê Tràng Lang có một số sắc phong nhưng là của các vị thần khác. Ở quê Nam Thạch cũng không còn thần tích, sắc phong, chỉ có hai ngai ở trong đặt bài vị nhưng chẳng có chữ. Tại Tràng Lang có họ Đào nhưng lại từ nơi khác đến cư ngụ mới khoảng bảy tám đời. Còn Nam Thạch không có họ Đào.

Tuy nhiên, ở Nam Thạch có một ông già kể, cụ Đào Cam Mộc quê nội là Tràng Lang nhưng từ nhỏ đã mồ côi cha, nên về ở quê mẹ. Nhà nghèo phải mò cua bắt ốc để sinh sống, được cái là Đào rất khỏe. Một hôm thuyền vua Lê Đại Hành qua làng bị cạn, quân lính không sao kéo thuyền đi được. Đang lặn ngụp dưới sông, Cam Mộc liền ghé vai nâng thuyền lên và thế là thuyền dịch chuyển được. Vua nhà Tiền Lê bèn tuyển Cam Mộc vào đội vũ sĩ. Và thế là từ đấy chàng Đào theo vua Lê đi chinh chiến, trở thành tướng giỏi.

Quê hương bản quán vị khai quốc công thần nhà Lý, như vậy còn nhiều vấn đề lớn chưa tường được...

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Tài liệu tham khảo:
-Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư (tập 1). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983, tr. 238-239.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968, tr. 94-95.
-Nguyễn Vinh Phúc, Đào Cam Mộc- công thần khai quốc triều Lý. Bài đăng trên website báo Hà Nội mới ngày 14 tháng 6 năm 2010.

Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2010

Danh tướng Nguyễn Hữu Tiến

Nguyễn Hữu Tiến (1602-1666), là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam.

Ông sinh năm Nhâm Dần (1602) tại làng Văn Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa (nay là huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa). Sau, ông di cư vào ở huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định.

Năm Tân Mùi (1631), Nguyễn Hữu Tiến xin vào gặp Nội tán Đào Duy Từ. Nhận thấy ông là người thông minh có chí lớn, nên vị đại thần này đã tiến cử ông lên chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) và gả con gái cho.

Buổi đầu, Nguyễn Hữu Tiến giữ chức đội trưởng trong đội thủy quân, rồi lần trải các chức: cai đội, chưởng cơ, chưởng dinh tiết chế...

Trong bảy lần quân Trịnh và quân Nguyễn đánh nhau, theo sử liệu thì Nguyễn Hữu Tiến đã cầm quân ra trận hai lần, đó là vào năm 1648 (lần thứ tư) và năm 1655-1660 (lần thứ 5).

Lần thứ tư (1648):
Tháng giêng năm Mậu Tý (1648), chúa Trịnh Tráng sai tướng đem quân thủy bộ vào đánh vào cửa Nhật Lệ, tiến sát dinh Quảng Bình. Chúa Nguyễn Phúc Lan (tức Chúa Thượng) liền sai con là Thế tử Nguyễn Phúc Tần đem đại binh đi chống giữ.

Sau khi họp bàn và sự nhận sự phân công, vào lúc canh năm (tức từ 3 giờ đến 5 giờ sáng), Nguyễn Hữu Tiến đem khoảng trăm con voi chiến xông thẳng vào dinh quân Trịnh, còn Nguyễn Phúc Lan thì chỉ huy các đạo quân bộ tiến theo sau. Hai bên giáp chiến ác liệt, cuối cùng quân Trịnh bị thua to phải tháo chạy về đất Bắc.

Ngoài số bị giết tại trận, bên chúa Trịnh còn bị bắt sống khoảng 3 vạn quân cùng mấy viên tướng. Trận này, được sử nhà Nguyễn khen là "võ công bậc nhất" của quân Nguyễn trong suốt thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (Quốc triều tiền biên toát yếu, tr. 30)

Lần thứ năm (1655-1660)
:
Năm Ất Tỵ (1655), quân Trịnh lại kéo vào quấy phá Nam Bố Chính. Bấy giờ, chúa Nguyễn Phúc Tần (tức Chúa Hiền) mới quyết ý cho quân qua sông biên giới (tức sông Gianh) đánh đuổi quân Trịnh. Đây là lần đánh nhau lâu nhất (1655-1660) và do quân Nguyễn chủ động tấn công.

Theo sử liệu thì dưới tài chỉ huy của Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến (lúc này đã được phong tước Thuận Nghĩa hầu) và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyễn đã đánh thắng quân Trịnh nhiều trận ở: Hà Trung, Lạc Xuyên, Tiếp Vũ, Mẫn Tường, Nam Giới, Châu Nhai, Tam Lộng, Đại Nại...Sau các trận này, quân Nguyễn làm chủ được 7 huyện ở phía nam sông Lam.

Tháng 5[1] năm Đinh Sửu (1657), chúa Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo đi tấn công quân Nguyễn ở làng Nam Hoa (thuộc huyện Thanh Chương). Nhờ hay trước, tướng Nguyễn Hữu Tiến đã lập kế đẩy lui được quân Trịnh. Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam, thỉnh thoảng đánh nhau một trận.

Nhưng đến tháng 10 năm Canh Tý (1660), thì quân Nguyễn thua to, vì sự bất hòa giữa Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật. Lược kể:

Sau khi Nguyễn Hữu Tiến biết việc Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, trong bụng lấy làm không bằng lòng. Bấy giờ, nhân có những sĩ tốt mới hàng ở đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bàn xem nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn Hữu Dật là không chịu.
Khi các tướng Nguyễn đang bàn bạc, thì có tin rằng Trịnh Căn đã quân tiến đánh ở làng An Điền và ở làng Phù Lưu, quân Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn Hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng truyền lện cho các tướng rằng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An Tràng, Nguyễn Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nữa đêm rút quân về Nam Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy, chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thám về nói mới biết quân mình đã rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông đến đánh đồn Khu Độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh chạy về, đến Hoành Sơn mới gặp quân của Nguyễn Hữu Tiến. Khi ấy, quân Trịnh Căn vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều...
Sau trận này, Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ, Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các chỗ hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng Lam Giang lại thuộc về Đàng Ngoài…[2]

Tháng 6 năm Giáp Thìn (1664), Nguyễn Hữu Tiến ốm nặng, đến tháng 7 năm Bính Ngọ (1666) [3] thì qua đời tại quân thứ, được triều đình truy tặng tước Tiết chế Thuận Quận công. Đời vua Gia Long, ông được thờ trong Thái Miếu. Đến đời vua Minh Mạng, ông được truy tặng tước Anh Quốc công và được thờ trong Võ Miếu.

Trong sách Quốc triều tiền biên toát yếu có đoạn khen ngợi ông, lược trích như sau:
(Nguyễn Hữu) Tiến nhiều lần lập chiến công, được Ngài (Chúa Hiền) khen là Hổ tướng, còn người Bắc Hà thì gọi ông là Hổ Uy đại tướng. Ông cùng với (Nguyễn Hữu) Dật đều là Công thần khai quốc (tr. 32 và 36).

Chú thích:
[1] Chép theo Quốc triều tiền biên toát yếu (tr.32). Việt Nam sử lược ghi là vào tháng 6 (tr. 301).
[2] "Nói dối với người cộng sự, làm mất đất mất quân", không hiểu sao, Nguyễn Hữu Tiến đã không bị bắt tội. Lạ nữa là, các nhà biên soạn sử Việt đều không có lời bình về vụ việc này.
[3] Quốc triều tiền biên toát yếu (tr. 36). Thông tin này được nhiều tác giả ghi theo. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi ông mất năm Ất Tỵ (1665), nhưng không cho biết là căn cứ theo nguồn nào.

Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều tiền biên toát yếu in trong Quốc triều sử toát yếu. Nhà xuất bản Văn Học, 2002.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 3). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1959.
-Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (tập 2). Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1967.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1992.

Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2010

Nhà thơ thời Nguyễn Nguyễn Hàm Ninh

Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) tự là Thuận Chi, hiệu là Tĩnh Trai và Nhâm Sơn; là một danh sĩ trong lịch sử Văn học Việt Nam thời nhà Nguyễn.

I.Tác giả:
Nguyễn Hàm Ninh là người làng Phù Ninh, sau dời sang làng Trung Ái, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay là làng Trung Thuần, xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình).

Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, được người cô không con nuôi cho ăn học.

Năm Kỷ Sửu (1829), ông đỗ tú tài. Năm Tân Mão (1831), thì ông đỗ thủ khoa (giải nguyên) kỳ thi Hương lúc 23 tuổi.

Ban đầu, ông được bổ dạy học tại Quốc tử giám. Năm Quý Tỵ (1833), ông làm tri huyện Lục Ngạn (Bắc Giang). Gặp lúc thân phụ qua đời, ông về cư tang cho đến năm Bính Thân (1836) thì được vời ra giữ chức Quốc học độc thư và dạy học cho thái tử Nguyễn Phúc Miên Tông.

Năm Mậu Tuất (1838), ông được chuyển giữ chức Tôn nhân phủ Chủ sự, nhưng vì phạm lỗi, bị vua Minh Mạng cho bãi chức.

Về quê được ít lâu, năm Tân Sửu (1841), học trò ông là Nguyễn Phúc Miên Tông lên nối ngôi (tức vua Thiệu Trị), ông lại được vời ra giữ chức hành tẩu ở Nội các, rồi viên ngoại lang bộ Hình.

Năm Bính Ngọ (1846), chuyển ông sang làm lang trung bộ Lễ, rồi đổi làm Án sát tỉnh Khánh Hòa. Ở đây, ông bị thuyền buôn bắt chở sang Trung Quốc, đến lúc về nước, bị triều đình cách chức đày vào Đà Nẵng sung quân.

Ít lâu sau, ông mới được cho về làm Trước tác ở Viện Hàn Lâm. Lại bị khiển trách, và lần này thì ông bị cách chức luôn.

Ngày 15 tháng 12 năm Đinh Mão (1867), Nguyễn Hàm Ninh qua đời, lúc thọ 59 tuổi.

Mộ Nguyễn Hàm Ninh hiện ở xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Nguyễn Hàm Ninh đã để lại:
*Tác phẩm bằng chữ Hán có:
-Tĩnh Trai thi tập (hay Nhâm Sơn thi tập)
-Tĩnh Trai thi sao (Bản sao thơ Tĩnh Trai)
-Dược sư ngẫu đề (Đề vịnh ngẫu hứng khi đi làm thuốc)

*Tác phẩm bằng chữ Nôm có:
-Phản thúc ước: Đây là bài văn tứ lục nhằm chống lại bài văn thúc ước (là các bài văn tế được đọc trong lễ tế thần hằng năm ở làng. Nội dung của chúng thường khuyên dân làng sống an phận, nhẫn nhục), tức qua bài văn này, ông công kích mạnh mẽ giới cường hào và vạch trần những tệ nạn của xã hội.
Ngoài ra, ông còn có một số bài thơ, bài ca trù viết bằng chữ Nôm.

*
Nguyễn Hàm Ninh nổi tiếng hay chữ. Ông và Cao Bá Quát là đôi bạn thơ. Ngoài ra, ông còn thường xướng họa với Tam Khanh (tức Nguyệt Đình, Mai Am, Huệ Phố) ở Huế.

Đa phần thơ Nguyễn Hàm Ninh viết về tâm sự của riêng ông, về nạn nước, cùng cảnh sống khổ cực của những người nông dân nghèo.
Nhận xét khái quát về sự nghiệp trước tác của ông, Đại Nam chính biên liệt truyện (do Cao Xuân Dục làm tổng tài) có đoạn:
(Nguyễn) Hàm Ninh lấy văn học nổi tiếng. Về thơ văn thời trầm tĩnh, hùng mạnh; khi đè nén, khi phô trương, và sở trường về lối ngũ ngôn. Thương Sơn công (tức Tùng Thiện Vương) vẫn thường khen (thơ ông) [tr. 684].

II.Giới thiệu 3 thi phẩm:

1. Cảm sự
Thùy khiển tây minh chiến hạm lai,
Hải cương kỷ xứ động xuân lôi,
Cần Giờ [1] dĩ thất kim thang hiểm,
Đà Nẵng không lưu phong hỏa đài.
Tam kỷ long xà [2] hoàn chướng tế,
Tứ lân phong hạc [3] mạn kinh xai.
Dao liên Lộc Dã [4] cao sưu địa,
Nhị thập dư niên hựu kiếp thôi [5].
Dịch nghĩa:
Cảm xúc trước việc xảy ra
Ai khiến chiến hạm từ bể tây tiến vào đất ta,
Làm cho dọc ven biển nhiều nơi vang dậy tiếng sấm mùa xuân,
Cửa Cần Giờ đã mất hẳn cái thế hiểm trở của thành vàng ao nóng,
Cửa Đà Nẵng luống để lại cái pháo đài khói lửa.
Dân "long xà" sau ba kỷ đang còn làm trở ngại,
Chuyện "phong hạc" từ bốn phía quanh nước đừng nên nghi sợ.
Đoái thương xứ Đồng Nai là chỗ đất màu mỡ,
Mới hết loạn được hơn vài mươi năm, nay lại bị giặc cướp tàn phá!

Chú thích:
[1] Cần Giờ: một cửa bể thuộc tỉnh Gia Định (Nam Kỳ). Năm 1859, giặc Pháp tấn công vào cửa ấy, mở đầu cuộc xâm lăng của chúng vào Nam Kỳ, sau mấy tháng đánh phá đồn ải ta ở Đà Nẵng.
[2] Long xà: rồng rắn, chỉ những dân chống lại nhà Chu sau khi Chu đã cướp ngôi nhà Thương được ba kỷ (một kỷ là 12 năm). Đây chỉ dân Nam Kỳ vẫn không chịu hàng phục Pháp.
[3] Phong hạc: do câu "Phong thanh hạc lệ", gió thôi hạc kêu. Quân Bồ Kiên nước Tần bị Tạ Huyên (nước Tấn) đánh thua; ban đêm, nghe gió thổi hạc kêu, tưởng quân Huyên đuổi theo, liền bỏ chạy (Tấn thư).
[4] Lộc Dã: Đồng Nai, chỉ đất Nam Kỳ.
[5] Từ cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi đến khi Pháp gây biến, có hơn vài mươi năm.

2. Lệ Sơn xuân vọng [1]
Cổ thú yên thâm túc vũ dư,
Nham hoa vô tế nhiễu khâm cư.
Thiên phong vãn chiếu liên bình lục,
Vạn lý phù vân quyển thái hư.
Nam quốc sơn hà chung bất động,
Tây nhung kỹ lãng dục hà như?
Tự văn cửu bệ cần thôi cốc [2],
Nhật vọng Cam Tuyền tấu tiệp thư [3].
Dịch nghĩa:
Mùa xuân đứng trên núi Lệ Sơn trông xa
Ở nơi đồn thú binh cũ, khói mây dày đặc, sau trận mưa đêm trước,
Hoa núi khắp nơi, bao quanh thân áo ta,
Ánh chiếu trên nghìn ngọn núi, chiếu qua đồng nội,
Mây nổi ngoài muôn dặm, cuốn khắp trời xanh.
Núi sông nước Nam quyết không thể lay chuyển,
Giặc cướp phương Tây muốn làm trò trống gì?
Dường nghe trên chín bệ đã cất nhắc vị đại tướng,
Hằng ngày mong mỏi trông thấy Cam Tuyền báo tin thắng trận.

Chú thích:
[1] Lệ Sơn: tên một dãy núi thuộc tỉnh Quảng Bình. Ở đây thời chiến tranh Trịnh - Nguyễn có lập đồn binh canh phòng.
[2] Thôi cốc: đầy bánh xe. Nghĩa bóng là cử đại tướng đi đánh. Theo sách Sử ký Phùng Đường truyện: khi phong chức đại tướng thì vua tự đẩy xe cho đại tướng mà bảo: trong nước thì quyền ta, ngoài mặt trận thì quyền đại tướng. Đây chỉ việc Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương.
[3] Cam Tuyền: tên một quả núi ở tỉnh Thiểm Tây, trên núi có cung Cam Tuyền của nhà Hán. Đời Hán Văn Đế, Hung Nô xâm lấn Trung Quốc, khói lửa suốt từ núi Cam Tuyền tới huyện Trường An.

3. Tức sự di chư đồng chí
Viêm phong chưng xích nhật,
Trọc thủy bế Hoàng Hà [1].
Cửu hạn ký thái thậm,
Tam nông kỳ như hà!
Vu ngu nghi nhữ vọng,
Dân bệnh cánh thùy ca [2]?
Nhiếp lý quần công tại,
Thương lâm lượng phỉ tha [3].
Dịch nghĩa:
Thơ tức sự gửi các bạn
Gió quạt hơi nóng, mặt trời đỏ nung nấu,
Nước đục là sông Hoàng Hà bế tác,
Đại hạn đã quá lâu,
Nhà nông sẽ ra sao?
Đồng bóng ngu si không đủ trông cậy,
Dân khổ cực nào ai nhắc đến?
Điều hòa âm dương có các vị đại thần,
Người làm ra mưa rào nhà Thương đâu phải là kẻ khác.

Chú thích:
[1] Trọc thủy: nước sông Hoàng Hà (Trung Quốc) luôn luôn bị đục.
[2] Theo nguyên chú của tác giả, câu này theo ý câu thơ của Bạch Cư Dị đời Đường: Duy ca sinh dân bệnh, nguyên đắc thiên tử tri, nghĩa là: Chỉ kể lể những nỗi khổ cực của dân, mong nhà vua biết rõ.
[3] Vua Cao Tông nhà Ân (Thương) được Phó Duyệt, một vị tướng giỏi, giúp việc trị nước. Cao Tông thường nói với ông ta: "Ví như đại hạn thì ta dùng ngươi làm trận mưa rào".

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện. Nhà xuất bản Văn Học, 2004.
-Nguyễn Lộc, mục từ Nguyễn Hàm Ninh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế Giới, 2004.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, 1992.
-Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858-1920), do Huỳnh Lý chủ biên, Nhà xuất bản Văn học, 1984.


Một cổng thành Huế

Thứ Tư, 25 tháng 8, 2010

Thủ lĩnh kháng Pháp Acha Xoa

Acha Xoa (hay Asoa, theo cách gọi của người Việt; không rõ năm sinh và năm mất) là thủ lĩnh cuộc chiến chống Pháp và triều đình Campuchia thân Pháp, khởi phát từ năm 1863 đến 1866 thì bị đánh dẹp.


Ngày 11 tháng 8 năm 1863, triều đình Norodom I tại Campuchia ký một hiệp ước với thực dân Pháp để thành lập một chính quyền bảo hộ trên toàn vương quốc. Lập tức, họ gặp phải sự chống đối quyết liệt của nhiều người dân trong nước. Người đầu tiên làm cuộc nổi dậy là hoàng thân Xivôtha (hay Ă. Sivotha, con vua Ang Duông) và người thứ hai là Acha Xoa (hay A Soa), mà sử Nguyễn gọi là Ong Bướm.

Theo sách Lịch sử Campuchia thì thủ lĩnh Acha Xoa không phải là một hoàng thân như Xivôtha, mà chỉ là một người nô lệ. Để việc vận động quần chúng được thuận lợi, ông đã tự xưng là "người trời", là "hoàng thân Angphim" (con cựu phó vương AngEm)[1].

Tuy nhiên, nhóm Nhân Văn Trẻ thì cho rằng Acha Xoa là con của quốc vương, vì tranh chấp vương quyền với anh là Ong Lằn, và còn vì không chịu sự cai trị của Pháp, nên đã sang Thất Sơn mộ dân lập đồn đánh nhau với anh và với Pháp [2].

Thoạt tiên, Acha Xoa hoạt động ở vùng Angco và Baphuon, nhưng sau đó (cuối năm 1863), ông dời sang vùng biên giới Châu Đốc-Hà Tiên thuộc Việt Nam, nơi có đông đảo người Khmer cư trú, để lập căn cứ kháng chiến lâu dài, ĐượcThủ Khoa Huân đến cộng tác, nên phong trào ngày càng lớn mạnh.
Năm 1864, lực lượng Acha Xoa đã làm chủ tỉnh Paknhum, tỉnh Campốt và tiến gần tới thủ đô Phnôm Pênh.

Lo ngại, thực dân Pháp liền yêu cầu triều đình nhà Nguyễn phải tìm bắt thủ lĩnh Acha Xoa và Thủ Khoa Huân và giải tán nghĩa quân cho họ (vì lúc này ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ vẫn thuộc nhà Nguyễn).

Tháng 6 năm Giáp Tý (1864), quan tỉnh An Giang là Phan Khắc Thận bắt được Thủ Khoa Huân. Bị áp lực của quân Pháp, viên quan này phải giao nộp ông. Sau đó ông bị đày đi Cayenne, là một thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.

Phần thủ lĩnh Acha Xoa, trong sách Lịch sử Việt Nam (1858-cuối thế kỷ 19), có đoạn chép:
Thực dân Pháp vừa ra lệnh cho triều đình Tự Đức phải bắt Acha Xoa giao nộp, vừa cho mua chuộc dụ dỗ tay sai để ám hại hoàng thân. Quan triều ở ba tỉnh miền Tây còn đang kẻ chịu người không đi lùng bắt, thì hoàng thân đã bị kẻ phản bội (vốn là thuộc hạ) bắn trọng thương [3].

Theo sử nhà Nguyễn thì:
Tháng 6 năm Bính Dần (tháng 7 năm 1866), Tổng đốc An Hà bị cách là Phan Khắc Thận đánh úp Ong Bướm ở núi Tốn thuộc An Giang, bắt được tên thổ mục (chỉ Acha Xoa) cùng lọng súng ngựa voi...giải giao cho chủ súy Pháp, trong khi đi đường gặp Nguyễn Hữu Cơ, Hữu Cơ bảo đem trở lại, nhưng Tổng đốc Trương Văn Uyển[4] sợ sinh ra trở ngại khác, nên hai ba lần giục, (Khắc Thận) bèn giải giao cho Pháp [5].

Sau đó, theo sách Lịch sử Campuchia, thì Acha Xoa bị nhà cầm quyền Pháp kết án đày biệt xứ, nhưng không cho biết ông bị lưu đày ở đâu và mất năm nào; còn theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì ông bị thực dân Pháp bức hại vàotháng 8 năm 1866 [6].

Nối tiếp Acha Xoa, một phong trào đấu tranh khác lại nổ ra, đó là cuộc nổi dậy của Pu Kom Pô.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Chú thích:
1.Theo Lịch sử Campuchia (tr. 192). Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (quyển 1, tr. 25) thì ông chỉ lấy danh nghĩa ủng hộ hoàng đệ AngPhim.
2.Nhóm Nhân Văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4), tr. 134.
3.Lịch sử Việt Nam (1858-cuối thế kỷ 19), tr. 95.
4.Trương Văn Uyển lúc bấy giờ là Tổng đốc Vĩnh Long, kiêm việc An Hà (An Giang và Hà Tiên) từ tháng 3 (âm lịch) năm 1865.
5.Đại Nam thực lục (quyển 30, tr. 86 và 255).
6. Lịch sử Cam puchia (tr. 193). Từ điển bách khoa Việt Nam (quyển 1, tr. 25).

Sách tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 30. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1975.
-Nhiều người soạn, Từ điển bách khoa Việt Nam (quyển 1). Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1995.
-Phạm Việt Trung-Nguyễn Xuân Kỳ-Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia. Nhà xuất bản Đại Học&THCN, 1981.
-Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858-cuối thế kỷ 19, quyển 3, tập 1, phần 1). Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.
-Nhóm Nhân Văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử (tập 4). Nhà xuất bản Trẻ, 2007.

Thứ Ba, 24 tháng 8, 2010

Thủ lĩnh Pu Kom Pô và cuộc khởi binh chống Pháp (1865-1867)

Pu Kom Pô (hay Pucômbô, ? -1867) là tên (theo cách gọi của người Việt) một nhà sư người Khmer [1], và là thủ lĩnh cuộc kháng Pháp và triều đình Campuchia thân Pháp, khởi phát từ năm 1865 đến 1867 thì bị đánh dẹp. Trong trận chiến đấu cuối cùng, ông bị thương nặng và sau đó bị quân Pháp giết chết vào cuối năm 1867.

Năm 1863, đô đốc Pháp ở Nam Kỳ là Đờ La Grăngđie (Pierre de la Grandière) sang Uđông để gặp Nôrôđôm I. Sau đó, hai bên đã ký bản hiệp ước thừa nhận sự "bảo hộ" của Pháp vào ngày 11 tháng 8 năm 1863.

Không chịu sự bảo hộ của ngoại bang, lần lượt các cuộc chống đối đã nổ ra. Đáng kể là ba cuộc nổi dậy do Xivôtha, Acha Xoa và Pu Kom Pô làm thủ lĩnh.

Tháng 4 năm 1865, Pu Kom Pô tập hợp một số người dân Khmer yêu nước làm cuộc nổi dậy. Biết tin ấy, viên chủ tỉnh Tây Ninh là Larclause liền tìm cách bắt ông đưa về giam ở Sài Gòn.

Tháng 5 năm 1866, ông vượt ngục trở về Tây Ninh tiếp tục hoạt động. Lần này ngoài số người Khmer đông đảo, còn có một số người Chăm, người Stiêng và người Việt tìm đến tham gia.

Liên kết với thủ lĩnh Trương Quyền
Ngày 7 tháng 6 năm 1866, Pu Kom Pô bàn với thủ lĩnh Trương Quyền (kế tục sự nghiệp của cha là Trương Định, ông dẫn quân đi xây dựng cơ sở chống Pháp ở vùng Đồng Tháp Mười-Tây Ninh) cùng hợp quân tiến đánh đồn Tây Ninh, giết chết chủ tỉnh Larclause, sĩ quan phụ tá Lasage và 11 lính.

Sau khi nhận được tin cấp báo, đô đốc Đờ La Grăngđie vội phái đại tá Marchaise đem tàu chiến cùng binh lính lên Tây Ninh. Gần đến nơi, Marchaise cho toán quân thủy đổ bộ tại Bến Keo, đợi toán thứ hai đi đường bộ do đại úy Fromillet chỉ huy từ Trảng Bàng lên. Sau khi hợp quân xong, ngày 14 tháng 6 năm 1866, khoảng 150 quân Pháp được trang bị vũ khí đầy đủ cùng 2 khẩu đại bác liền rầm rộ đi tấn công. Một trận giáp lá cà đã diễn ra tại Rạch Vinh (cách Tây Ninh khoảng 40 km). Cuối cùng về phía Pháp, đại tá Marchaise và một số lính Pháp bị giết, còn về phía liên quân Pu Kom Pô-Trương Quyền thì không rõ.

Thất hai trận này, André Baudrit kể:
Sau trận đánh (đồn Tây Ninh) 9 giờ, có lần quân Pháp liều ra lấy xác, Viên quan ba Pi-nô kéo quân qua cầu, vừa qua khỏi cầu, thoáng thấy bó nghĩa quân núp sau cây thì đâm hoảng, xô nhau chạy về đồn, chỉ mang được xác Lasage, vì xác này nằm ngay đầu cầu.[2]

Paulin Vial viết:
Tin tức về sự thiệt hại nặng nề của ta trong trận Rạch Vinh đã lan tràn trong nhân dân như một ngọn lửa thuốc súng; các lãnh tụ khởi nghĩa phái người đi cổ vũ các nơi, cả trong hàng ngũ chúng ta, cả trong thành phố Sài Gòn và họ đang tìm cách tấn công ta ngay tại phủ của ta [3].

Để cầm chân quân Pháp, không cho họ kéo lên Tây Ninh, đêm 23 rạng 24 tháng 6 năm 1866, các cánh quân khác của Trương Quyền đã tiến đánh các nơi đó là đồn Thuận Kiều (Chợ Lớn), đồn Trảng Bàng và vùng quanh Chợ Lớn.

Sau đó, liên quân Pu Kom Pô-Trương Quyền còn lần lượt tổ chức các cuộc tấn công khác, đáng kể là:
-Trận Trà Vang (Tây Ninh) ngày 2 tháng 7 năm 1866.
-Các trận Trảng Bàng, Củ Chi, Hóc Môn đồng loạt nổ ra ngày 7 tháng 7 năm 1866.
-Trận Long Trì (thuộc Tân An) ngày 8 tháng 7 năm 1866.
-Trận Bà Vang (Tây Ninh) và trận Bình Thới (Gia Định) xảy ra cùng ngày 13 tháng 7 năm 1866.

Tuy không có con số thiệt hại của đôi bên, nhưng theo sử liệu thì:
Liên quân Pu Kom Pô-Trương Quyền đã làm cho thực dân Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ phải hoang mang lo sợ. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân Việt-Khmer ngày càng mở rộng từ Sài Gòn đến Uđông, và từ biên giới Campuchia–Lào đến vịnh Thái Lan. Nghĩa quân đánh thắng nhiều trận và kiểm soát được một vùng rộng lớn giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, từ Xvây-riêng (Campuchia) đến Trảng Bàng (Tây Ninh)[4].

Lúc này, một số nghĩa quân từ các phong trào kháng Pháp đã bị dập tắt hay suy yếu (như của Thủ Khoa Huân, Acha Xoa, Võ Duy Dương,...) cũng tìm đến tham gia, nên liên quân Pu Kom Pô-Trương Quyền càng lớn mạnh.

Lo ngại, thực dân Pháp bèn huy động một lực lượng lớn, liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào căn cứ Tây Ninh. Đồng thời, họ còn cho phong tỏa các nguồn tiếp tế gạo và các nhu yếu phẩm, khiến đời sống của nghĩa quân gặp vô vàn khó khăn.

Về nước tiếp tục chiến đấu
Trước tình hình trên, khoảng cuối tháng 7 năm 1866, Pu Kom Pô đưa quân về lại Campuchia để tiếp tục chiến đấu.

Ngày 18 tháng 8 năm 1866, trên đường đi, quân của ông đã đánh tan đoàn quân của triều đình Uđông, giết chết viên chỉ huy là thượng thư Pak-nam. Tháng 10 năm đó, ông lại thắng lớn, làm cho nhà vua Nôrôđôm I phải cho người cầu cứu với Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ.

Khi ấy, triều đình Campuchia cũng nhanh chóng tổ chức một quân gồm hai ngàn người, rồi đưa đi càn quét quân Pu Kom Pô đang ở tỉnh Baphuông. Hay được, Pu Kom Pô liền chuyển quân đến nơi khác để bảo toàn lực lượng.

Ngày 17 tháng 12 năm 1866, Pu Kom Pô dẫn quân tiến đánh thành Uđông. Quân triều đình bị thua to, may nhờ quân Pháp kịp thời đến cứu nên thành không bị mất. Sau trận này, chiến sự còn tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi khác trên đường từ U đông đến Phnôm Pênh.

Cuối tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, tình hình trở nên bất lợi cho quân Pu Kom Pô. Bởi vì, trước đây ba tỉnh này vẫn là nơi cung cấp lương thực và vũ khí cho họ.

Để mau chóng ổn định tình hình tại Campuchia, nhà cầm quyền Pháp đưa Prakeo Pha (em vua Nôrôđôm I), một người trung thành và đắc lực, lên làm phó vương. Ngay sau đó, với sự giúp đỡ về trang bị và huấn luyện của người Pháp, Prakeo Pha cho tuyển mộ và thành lập được một đội quân đông đến bốn nghìn người, để đi đàn áp quân nổi dậy.

Ngoài biện pháp trấn áp bằng vũ lực, thực dân Pháp còn dùng cách mua chuộc để chia rẽ và phá hoại các phong trào chống đối. Cho nên từ giữa năm 1867, quân Pu Kom Pô yếu hẳn đi. Và sau khi bị thua mấy trận liền, quân Pu Kom Pô phải rút sang Suối Giây (Tây Ninh), rồi sau đó phải rút lên ẩn náu ở Stung Treng và Xam Bốc, gần giáp với nước Lào.

Mật thám dò la được báo về, quân Pháp liền rầm rộ kéo đến bao vây. Lập tức, Pu Kom Pô đốc quân chống trả ác liệt để mở đường tháo lui.

Ngày 28 tháng 7 năm 1867, quân Pháp bất ngờ mở cuộc tấn công vào Suối Giây (Tây Ninh). Trước vũ khí mạnh của đối phương, Trương Quyền đành phải chia lính ra từng toán nhỏ, vừa đánh vừa rút lui về phía sông Hậu. Dọc đường, Trương Quyền bị đạn đối phương giết chết [5].

Trận chiến đấu cuối cùng
Công cuộc kháng Pháp của Trương Quyền bị dập tắt, càng làm cho lực lượng Pu Kom Pô lâm vào thế cô. Cuối tháng 11 năm 1867, Pu Kom Pô cho quân vượt sông Cửu Long đánh vào Kompong Xoai (nay là tỉnh Kompong Thom) ở phía bắc Biển Hồ.

Ngày 3 tháng 12 năm 1867, sau một trận kịch chiến với quân Pháp, quân Pu Kom Pô bị đánh tan tác, còn ông thì bị trọng thương và bị bắt giải lên Phnom Pênh. Ngay đêm đó, trên đường đi, quân Pháp đã giết chết ông và sau đó cho bêu đầu ông tại trung tâm Phnôm Pênh (gần khu hoàng cung).

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
Chú thích:
[1] Chép theo nhóm Đinh Xuân Lâm (Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2. NXB Giáo Dục, 2006, tr. 32) và Lịch sử Campuchia (tr. 194). Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính (tr. 95) và Nhóm Nhân văn Trẻ (tr. 132) đều ghi Pu Kom Pô là một hoàng thân Campuchia. Do nạn tranh quyền trong triều đình Uđông (Oudong, cố đô của Campuchia), mà ông đã lánh sang Nam Lào ở suốt 17 năm.
[2] Theo Les lères années de la Cochinchine, tr. 190. (dẫn lại trong sách Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Trương Định. Nhà xuất bản QĐND, 2008. tr. 75).
[3] Dẫn lại theo Trần Văn Giàu, Tổng tập, tr. 155.
[4] Nhóm Nhân văn Trẻ, tr. 132.
[5] Chép theo Bách khoa toàn thư Việt Nam (bản điện tử). Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính thì cho rằng ông bị Pháp thuê người ám sát năm 1870. Còn nhóm Nhân văn Trẻ thì cho rằng ông bị bệnh mất.

Sách tham khảo chính:
-Trần Văn Giàu, Tổng tập. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2006.
-Phạm Việt Trung-Nguyễn Xuân Kỳ-Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia. Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1981.
-Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858-cuối thế kỷ 19), quyển 3, tập 1, phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.
-Nhóm Nhân Văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử (tập 4). Nhà xuất bản Trẻ, 2007.

Thứ Hai, 23 tháng 8, 2010

Giới thiệu nhà thơ tiền chiến Huyền Kiêu

Huyền Kiêu tên thật: Bùi Lão Kiều (1915 - 1995), bút hiệu: Huyền Kiêu (do Kiều mà ra), nguyên quán ở tỉnh Hà Đông (cũ), cư ngụ ở Hà Nội.
Vào những năm 40 của thế kỷ 20, ông viết văn, làm thơ, và cộng tác với các báo ở Hà Nội, và trở nên nổi tiếng .
Trong cuộc chiến tranh chống Pháp (1945-1954), ông tản cư ra chiến khu, công tác ở chi hội Văn nghệ Liên khu III.
Sau hiệp định Genève (1954), ông hồi cư về Hà Nội, công tác ở tạp chí Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho đến năm 1975.
Sau sự kiện 30 thàng 4 năm 19 75, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh và mất ở nơi đó vào ngày 8 tháng 1 năm 1995 (Ất Mão), thọ 80 tuổi.

Tác phẩm của Huyền Kiêu, gồm:
- Hồ Chí Minh, tinh hoa dân tộc (trường ca, 1944).
- Sang xuân (thơ, 1960)
- Mùa cày (thơ, 1965)
- Bầu trời (thơ, 1976)
Ngoài ra, ông còn dịch tiểu thuyết Gió Đông, gió Tây của Pearl S. Buck (NXB Hàn Mặc-1945; 1964 in lại).

***
Lúc ở Hà Nội, Huyền Kiêu với thi sĩ Đinh Hùng vốn là bạn thân từ thuở nhỏ. Cho nên khi bắt đầu gia nhập làng báo, làng văn; nhờ người bạn này, mà Huyền Kiêu sớm trở thành bạn thân thiết của Vũ Hoàng Chương, Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách….

Năm 1954, Đinh Hùng vào sống ở Sài Gòn, làm báo và phụ trách chương trình Tao Đàn trên Đài phát thanh Sài Gòn. Trong một lần trò chuyện với bạn (Quốc Nam) về những văn nhân thời tiền chiến, thi sĩ có nhắc đến hai bài thơ của Huyền Kiêu, đó là Tình sầu và Tương biệt dạ. Và theo Đinh Hùng, thì câu thơ đầu của bài Tương biệt dạ, là của nhà văn Thạch Lam.

Lược lại lời kể của thi sĩ Đinh Hùng:
Bên Hồ Tây, một đêm chớm thu năm Canh Thìn (1940), chúng tôi cùng kéo nhau ra vườn của Thạch Lam, ngồi nghe cá quẫy, nhìn trăng vời vợi…Một lát sau, Thế Lữ đã về nhà gần đấy rồi, quanh quẩn chỉ còn lại Huyền Kiêu, Thạch Lam và tôi thôi.

Đang buồn vì đôi bạn thân là Khái Hưng và Nhất Linh sắp sửa xa nhau, thì bỗng dưng Thạch Lam khơi mào bằng câu thơ: “Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề ...”, rồi xui Huyền Kiêu hãy làm tiếp đi!...Huyền Kiêu và tôi đều ngơ ngác, vì không hiểu sao hôm nay Thạch Lam lại nhiều ... thi hứng đến thế.

Suy nghĩ một hồi lâu, Huyền Kiêu nói:
-Tôi thử đọc cho các anh nghe. Bài thơ nhan đề "Tương biệt dạ". Hay, dở tùy nghi Thạch Lam và Đinh Hùng giúp sửa lại. Và anh khe khẽ ngâm sau khi giục Thạch Lam vào nhà lấy giấy bút ghi tốc ký.

Vậy là bài thơ "Tương biệt dạ", với đầy hình ảnh của Khái Hưng cùng Nhất Linh, đã được chính Thạch Lam mở đầu và do Huyền Kiêu sáng tác. Tình bạn thơ văn giữa chúng tôi thắm thiết là thế đó...


Chỉ mấy tháng sau, bài thơ trên được nhà xuất bản Đời Nay của Tự Lực văn đoàn tuyển in trong Giai Phẩm Đời Nay Xuân 1941, cùng với bài thơ "Bài ca man rợ" của Đinh Hùng. Đặc biệt, bài "Tương biệt dạ" còn được họa sĩ Đông Sơn (tức Nhất Linh) vẽ tranh minh họa.

Còn bài thơ "Tình sầu" của ông cũng rất nổi tiếng. Trước 1975, nhà văn Viên Linh đã dùng câu Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi, làm nhan đề cho quyển tiểu thuyết của mình. Gần đây hơn, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng đã dùng hai chữ Hạ đỏ làm nhan đề sách và còn trích dẫn mấy câu thơ đề bên ở trong.

Nhìn chung, những bài thơ hay của Huyền Kiêu đều là thơ buồn. Ở đây, xin giới thiệu lại hai bài thơ đã từng được thi sĩ Đinh Hùng và giới yêu thơ khen ngợi:

Tình sầu

Xuân hồng có chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội.

Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối…

Thu xám cũng chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi…

Đông xám lại chàng tới hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối…
1938

Tương biệt dạ

Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề
Ý sầu lên vụt đến sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Vương vấn người đi với kẻ về.

Ngồi suốt đêm trường chẳng nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vần trăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ?
Có giống như mình lưu luyến chăng?

Đã tắt lò hương, lặng phím đàn
Thư phòng sắp sằn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải vương theo mấy dặm buồn.

Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng nhiên sầu
Trăng mùa xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi. Anh biết đâu?

Mưa trên quán rượu

60 năm về trước
Chàng Verlaine râu ria
Lê từ quán rượu nọ
Sang lầu giang hồ kia

Lửa bừng nung chí nghĩ
U uất nặng bên lòng
Đi tìm nghĩa sự sống
Chỉ thấy hoài hư không

Say vì buồn vô hạn
Buồn vô hạn vì say
Đàn bà và rượu ngọt
Không làm quên đắng cay

Cầu nguyện rồi khóc lóc
Anh mang tình đi đâu
Qua mười phương xa lạ
Vẫn gặp một u sầu

Đêm nay trong quán lạnh
Sụt sùi trời gió mưa
Có một chàng trai trẻ
Đang sống đời anh xưa.
1939

Bài Tình đầu, Tương Biệt dạ chép theo Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, do Nguyễn Hùng Trương (tức Giám đốc nhà sách Khai Trí, Sài Gòn tuyển chọn, Nxb Thanh Niên, 1998, tr. 144-145). Bài Mưa trên quán rượu do họa sĩ Suối Hoa - con gái của nhà thơ- cung cấp bản thảo.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

Giới thiệu nhà thơ tiền chiến Thanh Tịnh

Thanh Tịnh (1911-1988) tên thật là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh). Các bút danh khác của ông: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945). Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Thanh Tịnh sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911[1] tại làng Dương Nỗ, ngoại ô Huế.

Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán đến năm 11 tuổi, thì theo học chữ Quốc ngữ tại trường tiểu học (trường Đông Ba) và trung học (trường Pellerin của giáo hội Thiên Chúa giáo) ở Huế.

Đỗ bằng thành chung, năm 1833, ông đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo Phong hóa, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị, Tinh Hoa...

Sáng tác đầu tay của ông là truyện "Cha làm trâu, con làm ngựa" đăng trên Thần kinh tạp chí (1934).

Năm 1936, Thanh Tịnh cho xuất bản tập thơ Hận chiến trường. Năm 1941, ông và hai bài thơ của ông (Mòn mỏi, Tơ trời với tơ lòng) được Hoài Thanh-Hoài giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).

Chân Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Thanh Tịnh làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ.

Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Sau đó, ông tham gia phụ trách đoàn kịch Chiến Thắng.

Năm 1945, ông tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội.

Về sau, ông thôi làm lãnh đạo, chuyên sáng tác. Ông đã là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I, II), ủy viên Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.

Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế.

Tác phẩm của Thanh Tịnh đã xuất bản:

Trước 1945:
-Hận chiến trường (thơ, 1936)
-Quê mẹ (truyện ngắn, 1941)
-Chị và em (truyện ngắn, 1942)
-Ngậm ngải tìm trầm (truyện ngắn, 1943)
-Xuân và Sinh (truyện ngắn, 1944)
Sau 1945:
-Sức mồ hôi (thơ và ca dao, 1954)
-Những giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1956)
-Đi từ giữa mùa sen (truyện thơ, 1973)
-Thơ ca (thơ, 1980)
-Thanh Tịnh đời và văn (1996).

Nhà thơ Thanh Tịnh đã được tặng thưởng:
-Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951-1952) cho những bài độc tấu xuất sắc.
-Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2007.
Ngoài ra, ông còn là người chiếm giải nhất (bài Lời cuối cùng) đồng hạng với nhà thơ Phạm Đình Bách trong cuộc thi thơ tháng Hai do báo Hà Nội báo tổ chức năm 1936.

*
Khi đi học, Thanh Tịnh đã ham thích văn chương. Hai nhà văn Pháp là Alphonse Daudet và Guy de Maupassant có ảnh hưởng không nhỏ đến văn phong của Thanh Tịnh sau này. Tuy nhiên, ông không thành công trong lĩnh vực viết truyện dài (Xuân và sinh, 1944), nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Trước 1945, thơ ông mang phong cách lãng mạn đậm nét. Trong những bài tiêu biểu như Tơ trời với tơ lòng, Vì đàn câm tiếng, Muôn bến, Rồi một hôm...đều mượt mà, tinh tế, hàm súc nhưng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống văn hóa, tinh thần xứ Huế. Trong các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943) đều có nhiều truyện đẹp, trong sáng và gợi cảm.

Sau 1945, trong kháng chiến, Thanh Tịnh đã khai sinh ra hình thức độc tấu. Nó thường là một bài văn ngắn, có tính chất tự sự, hoặc là đề cập đến những vấn đề thời sự và xã hội. Ngôn ngữ của tấu thường giản dị pha chút dí dỏm. Cách diễn đạt thường là nói, ngâm hay hát hò chỉ là phụ... Thơ trữ tình của Thanh Tinh từ 1945 trở về sau, nhìn chung không nổi bật. Ông viết thiếu lắng đọng, thiếu tinh tế, trừ một số bài viết theo phong cách lãng mạn mà ông đã thành công trước đây…


Giới thiệu thơ Thanh Tịnh:
Mòn mỏi
Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói toả mờ
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ

-Xa nhìn bên cõi trời mây
Chị ơi em thấy một cây liễu buồn.

Bên rừng em hãy lặng nhìn theo,
Có phải chăng em ngựa xuống đèo?
Chị ngỡ như chàng lên tiếng gọi
Trên mình ngựa hí lạc vang reo.

-Bên rừng ngọn gió rung cây,
Chị ơi con nhạn lạc bầy kêu sương.

Tên chị ai gieo giữa gió chiều,
Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu?
Trên dòng sông lặng em nhìn thử?
Có phải chăng người của chị yêu?

-Sóng chiều đùa chiếc thuyền lan,
Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông...
Ô kìa! Bên cõi trời đông
Ngựa ai còn ruổi dặm hồng xa xa?

Này lặng em ơi, lặng lặng nhìn
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in?
Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống,
Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.

-Ngựa hồng đã đến bên yên,
Chị ơi trên ngựa chiếc yên... vắng người.

(Báo Tinh Hoa)

Lời cuối cùng
I
Rồi một hôm, nếu về, cha hỏi:
Mẹ ở đâu? con biết nói sao?
-Con hãy bảo: trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau.

II
Nếu cha hỏi sao nhà vắng vẻ?
Mẹ khuyên con hãy trả lời sao ?
-Con lặng chỉ bình hương khói rẽ.
Và trên giường chỉ đĩa dầu hao!

III
Nếu cha hỏi cặp đào trước ngõ
Sao chỉ còn một gốc ngả nghiêng ?
-Con sẽ chỉ một cây đào nhỏ
Bên cây tùng, rồi đứng lặng yên.

IV
Còn mồ mẹ, nếu cha muốn biết,
Phải hướng nào, con nói cùng cha ?
-Con lặng chỉ bầu trời xanh biếc
Và bên trời chỉ nội cỏ xa!

(Hà Nội báo số 5 ngày 5 tháng 2 năm 1936)

Tơ trời với tơ lòng
Còn nhớ hôm xưa độ tháng này
Cánh đồng xào xạc gió đùa cây.
Vô tình thiếu nữ cùng ta ngắm
Một đoạn tơ trời lững thững bay.

Tơ trời theo gió vướng mình ta,
Mỗi khắc bên nàng nhẹ bỏ qua
Nghiêng nón nàng cười, đôi má thắm,
Ta nhìn vơ vẩn áng mây xa.

Tìm dấu hoa xưa giữa cánh đồng.
Bên mình chỉ nhận lúa đầy bông
Tơ trời lơ lững vươn mình uốn
Đến nối duyên mình với… cõi không.
(báo Phong hóa)

Bùi Thụy Đào Nguyên giới thiệu.
Chú thích:
[1] Chép theo thông tin mới in trong bộ Từ điển Văn học (bộ mới), trước đây quyển Thi nhân Việt Nam ghi ông sinh tháng 12 năm 1913.
[2]Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng), tr. 415. Cũng theo tác giả sách này, thì bài Mòn mõi, Thanh Tịnh đã lấy đề tài từ truyện La Barbe bleue của Charles Perrault (1628-1703); còn bài Lời cuối cùng thì ông phỏng từ bài thơ Et s’it revenait un jour của Maurice Maetrelinck (1862-1949).
Sách tham khảo:
-Hoài Thanh-Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Văn Học in lại năm 1988.
-Trần Hữu Tá, mục từ Thanh Tịnh in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế Giới, 2004.
-Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến. Nhà xuất bản Sống Mới, Sài Gòn, 1968.

Chủ Nhật, 22 tháng 8, 2010

Phim tài liệu: Chuyện tử tế của Trần Văn Thủy

Giới thiệu:
Đạo diễn, NSND Trần Văn Thuỷ sinh năm 1940 tại Nam Định. Ông từng có thời gian làm phóng viên chiến trường.
Một số tác phẩm nổi tiếng của ông:Những người dân quê tôi, phim đầu tay, quay ở chiến trường Quảng Đà, đoạt giải Bồ câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig (1970). Hà Nội trong mắt ai, giải vàng LHP Việt Nam 1988. Chuyện tử tế (1985) được đánh giá là tác phẩm đặc sắc nhất của đạo diễn Trần Văn Thuỷ. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig”. Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai, giải Phim ngắn hay nhất, Liên hoan phim Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 43. Chuyện từ một góc phố (2003), phim về những hậu quả của chất độc màu da cam để lại trong gia đình một cựu phóng viên chiến trường.
Chuyện tử tế (1985) kể về thân phận của những người nghèo khổ dưới đáy xã hội. Những người làm phim xông xáo vào đời và gặp lắm cảnh trái ngang: đến quay một lò gạch thì bị chủ lò gạch xua đuổi vì tưởng họ đang làm phim tuyên truyền cho nhà nước. Một đứa bé chăn vịt vì mệt, cần ngủ, lỡ để đàn vịt vào phá ruộng hợp tác xã mà phải mang lý lịch xấu. Một giáo viên toán phải đi bán rau. Những cựu chiến binh một thời oanh liệt nay người đạp xích lô, kẻ làm nghề sửa xe đạp. Một bà mẹ cùi hủi bị người đời khinh chê nhưng quyết chí đúc 18 vạn hòn gạch làm gia tài để lại cho đứa con trai. Đan xen giữa những mảnh đời là những suy nghĩ, nhận thức về sự tử tế, về chữ hiếu đối với dân và những gì được gọi là vĩ đại trong xã hội Việt Nam...
Hà Nội trong mắt ai bị cấm lưu hành từ năm 1982 đến 1987. Bộ phim tập hợp nhiều tích chuyện hay trong sử sách, vì vậy mà bị coi là “nhân chuyện xưa nói việc nay”. Chẳng hạn, trong mắt vua Quang Trung, quốc gia chỉ có thể trường tồn và hưng thịnh khi kẻ dưới dám nói những điều ngay thẳng, còn bề trên biết nghe theo lẽ phải. Hay là chuyện bức tượng ở Chùa Bộc (Hà Nội) bây giờ vẫn lưu giữ, trên đầu tượng có đề chữ Tâm. Trước đây nhiều nhà nghiên cứu đều chịu, không biết tượng tạc ai. Về sau cụ Trần Huy Bá mới đặt giấy bản sau bức tượng rồi dùng than củi chà lên, mới hiện ra dòng chữ: “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng”. Tức là đúng vào cái năm Gia Long truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn thì dân chúng Thăng Long vẫn dựng tượng Quang Trung... Rồi cả những chuyện tại sao Nguyễn Siêu lại cho dựng Tháp Bút bên Hồ Gươm; tại sao Tổng đốc Hoàng Diệu lại cho đặt tấm bia ở Ô Quan Chưởng cấm các chức quan sách nhiễu dân...

Xem phim tại địa chỉ: http://www.youtube.com/watch?v=3uN1qwjS2CI Chuyện Tử tếTrần Văn Thuỷ

Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2010

Võ Xuân Cẩn, một danh thần nhà Nguyễn

Võ Xuân Cẩn hay Vũ Xuân Cẩn (1772 - 1852), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Trong quãng đời làm quan của ông, có hai việc làm nổi bật, đó là: Xin phép thực hiện việc quân điền tại Bình Định; dâng sớ xin gia ơn cho con cháu thái tử Nguyễn Phúc Cảnh và xin bổ dùng con cháu Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất.


Võ Xuân Cẩn là người huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Lúc nhỏ, ông rất chăm học, thi đỗ hương cống (cử nhân), nhưng ở ẩn suốt thời Tây Sơn.

Gia Long năm thứ nhất (1802), nhà vua lấy lại kinh thành Phú Xuân, Võ Xuân Cẩn vào yết kiến, được bổ vào viện Hàn Lâm.

Năm 1803, ông được cử ra làm tham hiệp trấn Hưng Hóa, rồi làm cai bạ Bình Định.

Năm đầu Minh Mạng (1820), Võ Xuân Cẩn làm hiệp trấn Sơn Nam, sau về kinh đô Huế làm tả tham tri bộ Hình.

Năm 1824, ông làm hiệp trấn Nghệ An, rồi vì một lỗi nhỏ, bị giáng làm tuyên phủ phủ Hoài Đức (gần Hà Nội). Sau, chuyển ông làm Hình tả Bắc Thành hữu tham tri bộ Lại, rồi thăng thượng thư bộ Công.

Năm 1833, bổ Võ Xuân Cẩn làm tổng đốc Bình Phú (Bình Định và Phú Yên). Tại đây, năm 1835, ông được vua Minh Mạng khen rằng:
Tổng đốc Bình Phú Võ Xuân Cẩn từ khi nhậm chức tới nay thì Nam Kỳ luôn năm có việc. Địa hạt y trấn nhậm ở ngay khoảng đường trung độ, việc gọi lính và tải lương rất bận rộn, thế mà mọi việc đều được chu đáo. Trước đã thăng Thự hiệp biện Đại học sĩ, nay đặc cách gia hàm Thái tử Thiếu bảo và lại gia một cấp trác dị.

Một lần khác, ông lại được nhà vua khen là biết chọn quân ngũ, đàn hặc kẻ a dua trái phép.[1]

Tháng 11 (âm lịch) năm 1838, ông đề nghị việc quân điền, tức lấy một số ruộng của người giàu ở Bình Định chia lại cho người nghèo.

Năm 1839, Võ Xuân Cẩn lĩnh chức thượng thư bộ Hình kiêm quản viện Đô Sát sung Thực lục tổng tài, chủ trì việc biên soạn bộ sử Thực Lục.

Thiệu Trị năm thứ nhất (1841), thăng ông thự Đông các đại học sĩ, lĩnh Hình bộ thượng thư như trước, rồi gia hàm thái tử thái bảo. Lấy cớ là tuổi đã quá 70, ông dâng sớ xin nghỉ việc, nhưng nhà vua không cho.

Năm 1842, nhà vua đi tuần tra Bắc Kỳ, sung Võ Xuân Cẩn làm khâm sai đốc lý lo việc tra biện các vụ án.

Năm 1846, gặp kỳ Khánh tiết, nhà vua ban thêm cho ông chức ngự tiền đại thần.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848), Vũ Xuân Cẩn dâng sớ xin gia ơn cho con cháu Anh Duệ thái tử (tức Nguyễn Phúc Cảnh); lại dâng sớ xin bổ dùng con cháu Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất, và đều được nhà vua nghe theo. Thấy ông tuổi già đức cao, nhà vua cho ông kiêm lĩnh chức Sư bảo các hoàng thân.

Năm 1850, nhân ngày lễ, nhà vua thưởng cho cho ông một chiếc kim khánh có chữ Túc đức nguyên lão.

Năm 1851, ông thọ 80 tuổi, được vua Tự Đức ban cho hai bài thơ mừng thọ.

Năm 1852, Võ Xuân Cẩn lại lấy cớ tuổi già cố xin về, vua y cho. Tháng 4 (âm lịch) năm ấy, ông mất tại quê nhà.

Thương tiếc, vua Tự Đức sai quan đến tế, ban tên thụy là Văn Đoan. Ngoài ra, nhà vua còn sai bộ Lễ đem bài thơ và bài minh do mình làm có nhan đề là Tứ triều nguyên lão (có nghĩa là ông lão có đức vọng lớn ở bốn triều) khắc lên bia đá dựng tại làng ông.

Năm 1858, nhà vua cho thờ ông trong đền Hiền Lương tại Kinh đô Huế.

Hai việc làm nổi bật
*Thi hành phép quân điền tại Bình Định:
Năm Mậu Tuất (1838), Tổng đốc Bình Phú Võ Xuân Cẩn tâu:

Tỉnh Bình Định ít ruộng công mà ruộng tư nhiều gần đến gấp bốn lần, kẻ cường hào giàu có kiêm tính cả, mà người nghèo không trông nhờ vào đâu...Nay phàm ruộng tư cứ 5 mẫu làm hạn, còn thừa bao nhiêu thời làm ruộng công, phân cấp cho dân, để làm lương điền khẩu phân. Nhà vua dụ: Việc ấy chắc nhiều người không bằng, e khó làm được.

Năm sau, ông về Kinh triều yết, nhà vua lại hỏi tới việc chia ruộng đã trình bày trước, ông thưa rằng:
Tỉnh Bình Định đất tốt, nhà làm một năm gặt hai mùa, nhưng phần nhiều bị kiêm tính cả, người nghèo không có một thước, một tấc ruộng nào, nay nếu kiểm xét lấy ruộng của người giàu ra, chỉ để lại cho 1, 2 phần làm thế nghiệp, số còn thừa ra, lấy cấp cho nhân dân, thì họ nghèo có chỗ trông nhờ, mà lợi của đất mới được đều vậy.
Lần này, nhà vua giao xuống cho bộ Hộ bàn kỹ lại...Tháng 7 (âm lịch), sau khi đọc lời nghị của đình thần, vua Minh Mạng sai ông và tham tri bộ Hộ Doãn Uẩn đi đến Bình Định làm phép quân điền. Đến tháng 10 (âm lịch) năm ấy thì việc xong, Võ Xuân Cẩn được nhà vua khen thưởng một cấp trác dị [2].

Đề cập đến việc làm này của ông, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu viết:
Quân điền ở Bình Định quả là sự nghiệp “trác dị” của Võ Xuân Cẩn
song cũng là công trình tập thể của vua quan-những người lãnh đạo đương thời. Quân điền ở Bình Định coi như ổn định từ 1840 đến 1945, mặc dầu có phải sửa sai, vì đôi chỗ còn kiện cáo tranh tụng [4].

Dâng sớ xin gia ơn...
Năm Tự Đức thứ nhất (1848), tháng 3 (âm lịch) Vũ Xuân Cẩn dâng sớ xin gia ơn cho con cháu Anh Duệ thái tử (tức Nguyễn Phúc Cảnh), lại dâng sớ xin bổ dùng con cháu Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất. Trong sớ có câu rằng: Cứ theo án đã thành, thì tội không thể chối được, nhưng xét về nguyên nhân phải tội, thì tình còn có thể thương được.

Vua nghe rất cảm động, và đều cho thi hành cả (Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 257).

Vũ Xuân Cẩn có 2 vợ, vợ chính là họ Bạch, vợ thứ là họ Trần. Bà họ Trần sinh ra con gái thứ là Võ Thị Duyên, sau này làm vợ vua Tự Đức tức Lệ Thiên Anh hoàng hậu (tước hiệu được phong sau khi mất).

Năm Ất Dậu (1885), vua Đồng Khánh gia phong Vũ Xuân Cẩn làm Lệ Quốc công. Tổ tiên ông (4 đời) và hai vợ ông đều được phong tước. Ngoài ra, 4 con trai ông đều được bổ chức quan.

Chú thích:
[1] Theo Đại Nam thực lục, tập 3, tr. 16 (bản điện tử) và Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 255. Trác là "giỏi hơn cả"; dị là "khác bật tầm thường". Đây là một thứ cấp dùng để ban cho những người có công lao hơn người.
[2] Lược theo Quốc triều sử toát yếu (tr. 278) và Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 255-256).
[3] Xem chi tiết Phép quân điền ở Bình Định trong bài viết của Nguyễn Đình Đầu tại: [http://www.dostbinhdinh.org.vn/DiaChiBD/dan_nhap.htm].

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.

Sách tham khảo chính:
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện. Nhà xuất bản Văn học, 2004.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu. Nhà xuất bản Văn học, 2002.
Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.


Ngọ môn thành Huế

Đào Trí, một danh thần nhà Nguyễn.

Đào Trí (1798? [1]-?), tự là Trung Hòa, là một võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Tiên tổ Đào Trí là người Thanh Hóa, sau chuyển vào ở huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Tuy là con nhà nghèo, nhưng Đào Trí rất hiếu học và ham đọc sách. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), theo lệ làng, ông ra đầu quân rồi thăng mãi đến Chánh đội trưởng suất đội.

Năm Canh Tý (1840), Đào Trí được điều động sang Trấn Tây thành (tức Chân Lạp). Nhờ trấn áp được cuộc nổi dậy của người Chân Lạp ở Sa Tôn, nên ông được bổ chức Phó quản cơ sung Hiệp quản vệ Tả Thủy ở Vĩnh Long.

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), thăng Đào Trí làm Phó vệ úy vệ Tiền doanh Hùng Nhuệ.

Năm Đinh Mùi (1847), ông lãnh việc đi phòng giữ biển Đà Nẵng, xây đắp đồn bảo. Một lần dự trận đánh ở Trà Sơn [2], không làm tròn nhiệm vụ, ông bị cách chức nhưng cho lưu lại, rồi đổi về làm Phó vệ úy vệ nhị Hậu doanh quân Vũ Lâm.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848), chuyển Đào Trí vào Nam Kỳ làm Lãnh binh Biên Hòa, rồi Định Tường.

Năm Giáp Dần (1854), ông được bổ làm Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm Y, rồi đổi làm Tham biện quân vụ tỉnh Quảng Ngãi. Đến khi nạn Thạch Bích (các dân tộc ở Đá Vách nổi dậy) tạm lắng yên, ông được triệu về Kinh đô Huế làm Thự chưởng vệ, giữ quyền Hữu dực doanh Vũ Lâm.

Năm Ất Mão (1855), trước khi đại thần Tạ Quang Cự về hưu đã tiến cử Đào Trí với nhà vua, nhờ vậy ông được tin cậy.

Tháng 8 năm Bính Thìn (1856), tàu chiến Pháp đến sinh sự ở vũng Sơn Trà thuộc cửa Hàn (Quảng Nam, nay thuộc thành phố Đà Nẵng), vua Tự Đức sai Đào Trí, Hường lô tự khanh Nguyễn Duy Hiệp, Tổng đốc Quảng Nam Trần Tri cùng lo việc chống giữ.

Ngày 1 tháng 9 năm 1858 (Mậu Ngọ), tàu chiến Pháp gồm 12 chiếc vào cửa Hàn, bắn phá các bảo đài. Việc ấy tâu lên, nhà vua liền sai Đào Trí cùng với Tổng đốc Nam Nghĩa (Quảng Nam và Quảng Ngãi) Trần Hoằng ra sức chống cự. Sau vì để đồn An Hải và đồn Điện Hải bị vây rồi thất thủ, Trần Hoằng bị cách, Đào Trí lên nắm quyền Tổng đốc.

Tháng 10 (âm lịch) năm ấy, ở sông Hàn, nhờ khéo cho quân mai phục, ông và Tán tương Nguyễn Duy đã đánh lui được quân Pháp.

Năm Nhâm Tuất (1862), Đào Trí được sung chức Kinh lý đại thần, đốc biện việc lương quân và khí giới từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Nhưng chẳng bao lâu sau thì ông phải ra Bắc Kỳ nhậm chức Thống chế tham tán quân thứ Hải Yên (hay Hải An gồm Hải Dương& Quảng Yên), để hiệp cùng các tướng lĩnh khác đi đánh dẹp cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng.

Tiếp đó, Đào Trí cùng với Trương Quốc Dụng và Phan Tham Tĩnh dẫn quân qua lấy lại được phủ Bình Giang và giải vây cho thành tỉnh Hải Dương vào tháng 7 (âm lịch) năm ấy. Sang tháng sau, viên chỉ huy quân Cổ phỉ Tàu (Sử nhà Nguyễn còn gọi là giặc khách. Đây là một trong số tàn dư của các lực lượng chống Thanh nhưng đã biến chất) là Lý Hiệp Thắng kéo lực lượng đến vây thành tỉnh Cao Bằng. Đào Trí cùng với tướng Trương Quốc Dụng dẫn quân Hải Dương qua giải vây được.

Nhờ hai chiến công này, mà Đào Trí được thăng hàm Đô thống lĩnh chức Tổng đốc Định Yên (hay Định An gồm Nam Định và Hưng Yên). Ở đây, Đào Trí dâng sớ đại ý nói rằng: "Lệ thi Hương thường dùng các viên phủ, huyện sung làm sơ phúc thảo, nay đem viên giáo thụ sung vào phúc khảo, viên huấn đạo và cử nhân sung vào sơ khảo (tức giao việc này lại cho ngành giáo địa phương), để dân trong hạt không phải phiền vì việc đón tiễn". Lời tâu được nhà vua khen là phải.

Gặp khi Nam Định giá gạo đắt, dân thiếu ăn. Đào Trí cùng Bố chính Nguyễn Huy Kỷ và Án sát Lê Tuấn quyên tiền giúp việc chẩn cấp được 1.400 lạng bạc, 90.500 quan tiền và 2.200 hộc lúa. Bên cạnh đó, ông còn sai dựng kho xã thương được 94.100 hộc lúa cùng 1.800 quan tiền; và đôn đốc dân đắp đê, khai khẩn ruộng được hơn 17.000 mẫu, được nhiều người khen là biết làm lợi cho dân.

Năm Bính Dần (1866), đến kỳ xét công lao, Đào Trí được thăng Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự, nhưng vẫn lĩnh chức như cũ. Sau, nhà vua thấy Hà Nội là nơi trọng yếu nên đổi ông đến Hà Ninh (Hà Nội & Ninh Bình), kiêm sung thống đốc việc phòng giữ ven biển của ba tỉnh là Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên. Ngoài ra, ông còn đảm việc huấn luyện biền binh, sửa sang đồn lũy.

Năm Mậu Thìn (1868), một nhóm tú tài ở Nam Định do Lê Đường dẫn đầu đi đốt phá nhà thờ và nhà dân theo đạo Thiên Chúa ở hai xã là Trình Xuyên và Ngọc Thành. Nhà vua cho rằng Đào Trí trước đây làm Tổng đốc Định Yên, được dân tin phục nên sai ông đến đó để giải quyết việc cho êm thắm. Xong việc, Đào Trí về lại Hà Nội rồi nhận lệnh dẫn quân mạnh đi tuần hành ở các hạt Nam Định, Hải Dương và Bắc Ninh.

Cũng trong năm này, lấy cớ già yếu (70 tuổi), Đào Trí dâng sớ cáo quan. Vua Tự Đức cho rằng ông tuy già nhưng vẫn làm được việc nên không cho. Biết Đào Trí khi ở Nam Định, đã vì dân làm nhiều việc tốt, nhà vua thưởng cho ông một kim bài có chữ “vị đức, vị dân” và sai sử quán soạn văn bia để giao cho tỉnh trên khắc vào đá, nhưng ông từ chối.

Bấy giờ quân Ngô Côn (một trong số tàn dư của lực lượng chống Thanh có tên là Thái Bình Thiên Quốc nhưng đã biến chất) đang nổi lên đánh phá ở đất Bắc, nên nhà vua lại bổ Đào Trí làm Sơn Bắc quân thứ Thống đốc tiễu bộ quân vụ Đại thần. Và để thống nhất việc quân, nhà vua cho hợp tất cả các đạo quân đang đóng ở Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang), rồi giao ông được toàn quyền điều động.

Sau đó, ở trận đồn Man Hạ, ông chỉ huy quân đánh thua, phải giáng làm Đô thống. Rồi vì suốt nửa tháng không phái quân đi đánh, ông lại bị giáng xuống Thống chế, sung việc đốc vận.

Năm Kỷ Tỵ (1869), Đề đốc Phùng Tử Tài vâng chỉ dụ vua nhà Thanh sang giúp quân triều tiễu trừ quân Ngô Côn. Năm sau (1870), khi Phùng Tử Tài dẫn quân đến thành Tuyên Quang, mà lương thực cùng đạn dược không được chuyển vận kịp thời. Khâm sai Võ Trọng Bình đem việc ấy tâu lên, Đào Trí bị nhà vua sai tước hết chức hàm, nhưng cho lấy công chuộc tội [3].

Không lâu sau, Đào Trí được khai phục chức Lãnh binh. Tháng 7 (âm lịch) năm ấy, vì quá già yếu ông lại xin nghỉ. Lần này, Đào Trí được nhà vua chuẩn y, và cho khai phục chức Chưởng vệ, tức chức quan gần như trở lại từ đầu.

Đào Trí mất ở tuổi ngoài 80.

Trong bộ sách Đại Nam chính biên liệt truyện do Tổng tài Cao Xuân Dục chủ trì việc biên soạn có lời khen ngợi Đào Trí như sau:
Đào Trí tính nhanh nhẹn, thẳng thắn, thích văn chương. Tuy xuất thân về hàng ngũ, nhưng thường đón thầy dạy học. Đào Trí thích đọc Vũ kinh, học qua kinh sử. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu thường khen Đào Trí tuy bề ngoài thì võ, mà bề trong thì văn. Đào Trí ở ngoài Bắc gần 18 năm, khi đốc suất việc tỉnh, thì chính sự được chỉnh đốn, khi thống quản việc quân thì thao lược thông thạo. Võ thần như thế, thực là ít có (tr. 547).

Ở quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh hiện có con đường mang tên ông.

Chú thích:
[1] Trong Đại Nam chính biên liệt truyện có câu: “Năm Tự Đức thứ 21 (1868) tuổi Trí đến lệ 70, dâng sớ cáo lui” (tr. 546), nên tạm suy ra là Đào Trí sinh năm 1798. Còn năm mất sách này ghi là: “(Đào) Trí năm 80 tuổi thì chết” (tr. 547). Tuy nhiên tra trong sách Đại Nam dư địa chí ước biên (phần tỉnh Phú Yên) do Cao Xuân Dục biên soạn thì lại thấy câu: Đào Trí thọ "hơn" 80 tuổi thì mất (tr. 145). Vì vậy, chưa thể xác định được năm mất.
[2] Cả hai quyển sử Nguyễn dùng để tham khảo đều không ghi rõ là Đào Trí đã đánh nhau với ai. Tra ở sách Việt Nam biên niên sử của Đặng Duy Phúc thì thấy tháng 3 âm lịch năm 1847, chỉ huy Pháp là Rigault de Genouilly gây hấn ở Đà Nẵng, cho quân bắn chìm 5 chiếc thuyền vỏ bọc đồng của quân Việt, giết chết Lãnh binh Nguyễn Đức Chung và Hiệp quản Lý Diên (NXB Hà Nội, 2009, tr. 294). Rất có thể vì vậy mà ông bị cách vì tội "không biết ra sức" (Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 544)
[3] Chép theo Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 547. Trong Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam (bản in năm 1992), Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế cho rằng vì Đào Trí đánh thua quân Pháp nên bị cách (tr. 127). Xét ra có thể không đúng vì đến năm 1873, quân Pháp mới ra Bắc Kỳ nhân vụ lái buôn Jean Dupuis, mà Đào Trí thì đã nghỉ hưu từ năm 1870.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Sách tham khảo chính:
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện. Nhà xuất bản Văn học, 2004.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu. Nhà xuất bản Văn học, 2002.

Thứ Năm, 19 tháng 8, 2010

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh chống Nguyễn (1861-1865

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh chống Nguyễn (1861-1865)

Tạ Văn Phụng (? - 1865), còn có các tên là Bảo Phụng, Lê Duy Phụng, Lê Duy Minh. Ông là người Việt thân Pháp và là thủ lĩnh cuộc nổi dậy (sử cũ thường gọi là "giặc biển") ở Bắc Kỳ (Việt Nam) khởi từ cuối năm 1861 đến cuối năm 1865 thì kết thúc.

Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì lúc bấy giờ Tạ Văn Phụng và cuộc nổi dậy của ông là đáng kể hơn cả. Nó đã khiến triều Tự Đức phải dốc toàn lực để đàn áp bằng binh hùng tướng mạnh. Tính ra từ năm 1861 đến 1865, Tạ Văn Phụng đã làm cho vua quan nhà Nguyễn hao tổn tinh thần và tổn hại biết bao sinh mạng cùng tiền tài mới bắt sống được ông. Còn sử gia Trần Trọng Kim thì cho rằng chính Tạ Văn Phụng là một trong số nguyên nhân đã góp phần làm cho nhà vua phải vội vã sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định giảng hòa với thực dân Pháp [1].

*
Tạ Văn Phụng sinh tại huyện Thọ Xương, thuộc Hà Nội, trong một gia đình theo Thiên Chúa giáo. Trước đây, ông được một giáo sĩ đưa đi nuôi dạy ở nước ngoài, sau lại theo đoàn quân viễn chinh Pháp về đánh Quảng Nam [2]. Đến tháng chạp năm Quý Dậu (1861) thì ông ra Bắc Kỳ tự xưng mình là Lê Duy Minh, thuộc dòng dõi nhà Lê (mạo nhận là hậu duệ vua Lê Trang Tông) để làm cuộc lật đổ nhà Nguyễn.

Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
Tháng 12 năm Quý Dậu, tỉnh Quảng Yên nổi giặc biển. Cố đạo Trường làm chủ mưu giặc, tôn Tạ Văn Phụng làm Minh chúa; Văn Phụng mạo xưng con cháu nhà Lê tên là Lê Duy Minh; bọn tên Ước, tên Độ làm tướng giặc; sau hiệp với các thổ phỉ tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An; lại thông với giặc Cổ phỉ Tàu. Chúng nó tụ hội ở các phần biển châu Tiên Yên phủ Hải Ninh,...mà giặc ấy ngày càng nhiều...(tr. 397).
Theo sử liệu thì chỉ trong thời gian ngắn Tạ Văn Phụng đã chiêu mộ được một đạo quân đông đảo, mà đa phần là những người dân đói khổ lưu vong, cùng nổi dậy tại đất Quảng Yên, rồi kéo nhau đi đánh phá các nơi.

Lo ngại, tháng giêng năm Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức sai Tổng đốc Định An Nguyễn Đình Tân sung chức Hải Yên Kinh lược Đại thần, Nguyễn Tư Giản làm Tham tán quân vụ, nhưng chỉ được ít lâu thì bị cách, vì không làm tròn nhiệm vụ. Lúc bấy giờ, Tạ Văn Phụng đã làm chủ được vùng Hải Ninh (thuộc Quảng Yên).

Tháng 3 (âm lịch) năm ấy, Cai Vàng ở Bắc Ninh cũng lấy danh phù Lê (tôn Lê Duy Uẩn làm minh chủ) để làm cuộc nổi dậy. Sau đó, Tạ Văn Phụng và Cai Vàng liền hợp tác với nhau để tăng thanh thế.

Tháng 5 (âm lịch), sau khi đã đánh chiếm phủ Hải Ninh, Tạ Văn Phụng bèn cho quân bao vây và uy hiếp thành tỉnh Hải Dương. Theo sách Lịch sử Việt Nam (1427-1858), thì trong khoảng thời gian này, Tạ Văn Phụng có cử người vào Nam Kỳ nhờ tướng Bonard trợ lực, với lời hứa hẹn rằng sẽ lập một vương quốc Công giáo dưới quyền Pháp bảo hộ sau khi đánh đổ được nhà Nguyễn. Nhưng vì trong ấy phong trào kháng chiến đang tăng mạnh, và việc hòa ước với triều đình Huế cũng sắp xong, cho nên viên tướng này đã không thuận [3].

Nhận tin báo nguy, vua Tự Đức liền cử Thượng thư bộ Hộ Trương Quốc Dụng làm Thống đốc Hải An quân vụ Đại thần, Thị lang bộ Hộ Phan Tam Tỉnh làm Hộ lý tổng đốc, Chưởng vệ Đặng Hạnh, Lê Xuân đều sung chức Đề đốc, rồi đem lính ở Huế và ở Thanh Nghệ đi đánh quân Tạ Văn Phụng. Tiếp theo, nhà vua lại điều thêm Kinh lý đại thần Đào Trí đang làm nhiệm vụ ở Trung Kỳ ra làm Tham tán quân thứ Hải Yên.

Tháng 6 (âm lịch), nhà vua lại truyền cho Nguyễn Bá Nghi từ quân thứ Bình Thuận về lãnh chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên.

Tháng 7 (âm lịch), các tướng là Trương Quốc Dụng, Đào Trí, Phan Tham Tĩnh từ Hưng Yên dẫn quân qua lấy lại được phủ Bình Giang và giải vây cho tỉnh thành Hải Dương.

Tháng 11 (âm lịch), đạo quân thứ tỉnh Đông (Hải Dương) lại đụng độ với quân Tạ Văn Phụng tại phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn (đều thuộc tỉnh Hải Dương). Quân triều thắng trận liền kéo thẳng đến tỉnh thành Quảng Yên, đuổi quân Tạ Văn Phụng chạy ra Đồ Sơn, Cát Bà.

Tháng 3 năm Quý Hợi (1863), Phó đề đốc Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên Quang và bắt sống được Lê Duy Uẩn (minh chủ của quân Cai Vàng).

Tháng 5 (âm lịch) năm ấy, vua Tự Đức điều động Nguyễn Tri Phương sang làm Tổng thống Hải Yên quân vụ, đổi Trương Quốc Dụng làm Hiệp thống để cùng hiệp lực đi đánh dẹp. Ngay sau đó, Hải Yên thủy đạo Thống chế Lê Quang Tiến đánh đuổi được quân Tạ Văn Phụng tại tổng Hà Nam thuộc tỉnh Quảng Yên.

Nếu không bị bão, biết đâu Việt Nam có thêm một ông vua họ Tạ
Sau lần thua trên, tháng 9 (âm lịch), Tạ Văn Phụng quyết định thay đổi chiến lược. Ông cho tập hợp toàn bộ lực lượng lại, gồm khoảng 500 chiến thuyền, từ Cát Bà và Đồ Sơn tiến thẳng vào kinh đô Huế. Theo Phạm Văn Sơn thì Tạ Văn Phụng cho rằng quân lực của triều đình đã chuyển hết ra Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Ở đấy quân đơn tướng ít mà bị đánh úp dễ bị mất như chơi. Nhưng chẳng may kế hoạch này không thành vì binh thuyền của Phụng bị bão tan vỡ gần hết [4].

Đề đốc Lê Quang Tiến và Tuần phủ Bùi Huy Phan bắt được tin ấy vội đem quân ra định tiêu diệt nốt, không ngờ quân của Tạ Văn Phụng tuy không còn khả năng tấn công Huế, nhưng vẫn còn đủ sức đánh tập hậu, khiến quân triều bị thua đậm. Thất bại, cả hai võ quan trên đều nhảy xuống biển tự tận.

Tháng 6 năm Giáp Tý (1864), đạo quân thứ Hải Yên lại tổ chức tấn công quân Tạ Văn Phụng ở tại La Khê, tổng Hà Bắc (thuộc huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, tỉnh Quảng Yên). Lần này, quân triều bị thua to, biền binh bị thương và thất lạc rất nhiều. Các tướng nhà Nguyễn là Hiệp thống Trương Quốc Dụng, Tán lý Phạm Văn Khuê, Tán tương Trần Huy Sách đều tử trận. Riêng Chưởng vệ Hồ Thiện bị bắt sống, nhưng sau đó cũng bị giết chết. Nhận được tin đại bại, vua Tự Đức liền sai người đi "thuê tàu khách đánh giặc" (tức tàu của hải quân nhà Thanh).

Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
...Tháng 7, Ngài (Tự Đức) sai Thị lang bộ Hộ Trịnh Lý Hanh qua quân thứ Hải Yên, hội đồng với quan quân thứ thuê tàu khách đánh giặc [13].
Tháng 4 năm Ất Sửu (1865), Tạ Văn Phụng đem hơn 300 chiến thuyền từ cù lao Phò Long, quần đảo Cát Bà, chia làm ba đạo đến quấy phá ở mạn Hải Dương. Tướng Nguyễn Tri Phương khiến Nguyễn Văn Vĩ đốc thuyền đến đánh, bắt sống và chém nhiều quân nổi dậy. Cũng trong tháng này, quân Tạ Văn Phụng lại tràn vào sông Võ Định xứ Lang Thâm thuộc tỉnh Hải Dương, dùng kế hỏa công đánh tan tác đạo quân thủy ở nơi sông Cấm, bắt sống được Thống chế Nguyễn Doãn rồi giết chết. Hay tin, tướng Nguyễn Tri Phương liền đốc lính bộ tới đánh đuổi (tr. 423).

Tháng 5 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Tạ Văn Phụng lại đem quân tấn công đồn Quỳnh Lâu và An Trì thuộc Quảng Yên. Tán lý Đặng Trần Chuyên đánh đuổi được. Đốc binh là Ông Ích Khiêm lại đánh được quân nổi dậy tại khe Vị Dương . Đề đốc Mai Thiện chia quân đến các xứ Hạ Đoan, Lang Thâm, đánh hơn 10 trận lớn nhỏ đều thắng.

Sau khi bị đánh thua ở nhiều nơi, Tạ Văn Phụng buộc phải cho quân lui về giữ Hải Ninh. Đến tháng 6 (âm lịch) năm ấy, quân Tạ Văn Phụng bị các tướng là Nguyễn Tri Phương, Phạm Chi Hương, Nguyễn Văn Vĩ, Mai Thiện cầm quân thủy bộ đến vây đánh.

Tiếp đó (tháng 7 âm lịch), khoảng trăm chiếc tàu của Tạ Văn Phụng đang neo đậu tại sông Thác Hàn ngoài thành Hải Ninh, cũng bị Đốc binh Ông Ích Khiêm và Phó vệ úy Phan Đình Thảo hiệp đồng với quan nhà Thanh ở Khâm Châu là Lý Văn Yên đến đánh. Trận diễn ra vào buổi tối, đến sáng thì quân triều lấy lại được thành Hải Ninh, đuổi đoàn tàu chiến (ước chừng 70, 80 chiếc) của quân nổi dậy chạy đến vũng Ngọc Sơn (Đồ Sơn)...Bị truy đuổi, Tạ Văn Phụng cùng tùy tướng tên là Ước (không rõ họ) lại đem đoàn thuyền chạy vào tới vùng biển Thanh Hóa, Nghệ An.

Bị bắt và bị xử chết
Tháng 8 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), đạo quân thứ Hải Yên do tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy lại truy đuổi một đội tàu của Tạ Văn Phụng tại sông Gia Luận thuộc xứ Hà Lai. Tại đây, ông sai Tri huyện Nghiêu Phong là Nguyễn Hữu Thuận đem binh thuyền đi thăm dò địa phận sông, thì chợt gặp thuyền Đô thống Hậu quân của quân nổi dậy là Phạm Văn Khương và Oánh (không rõ họ) nên hô quân bắt được. Sau đó, ông Oánh bị giết ngay, còn ông Khương thì bị nhốt cũi giải về Kinh đô Huế.

Sang tháng sau (tháng 9 âm lịch), thì đoàn thuyền Tạ Văn Phụng bị "bang thuyền nước Tàu" đánh tan ở ngoài Hải Ninh và hòn Thảo Dự ở Quảng Bình. Đến lúc ấy quân nổi dậy, người thì phải bắt, người thì chạy trốn được. Phần Tạ Văn Phụng và tùy tướng tên là Ước, sau đó cũng bị bắt sống giải về Huế.

Tháng 10 năm 1865, Tạ Văn Phụng bị xử lăng trì.

Vấn đề liên quan:
Có một số tác giả cho rằng Tạ Văn Phụng đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy có qui mô rộng lớn, chống lại nhà Nguyễn, thu hút đông đảo nhân dân đói khổ lúc bấy giờ, và đã làm cho triều đình Huế phải lao đao lắm mới dẹp yên được. Nhưng xu hướng hòa thân với Pháp để lợi dụng Pháp, cũng như việc liên kết với quân Tàu ô, quân khách (tàn dư của các cuộc chống Thanh, nhưng đã biến chất. Sử cũ thường gọi họ là: "giặc khách") đã lái cuộc nổi dậy đi chệch hướng, làm mất dần sự ủng hộ của nhân dân Việt.

Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng Tạ Văn Phụng không phải là người chủ xướng việc liên kết mà chỉ là "con bài" của thực dân Pháp, với sự tiếp tay của các cố đạo. Bởi các phong trào kháng Pháp ở Nam Kỳ lúc bấy giờ đang dâng cao, khiến họ phải nghĩ tới một giải pháp chánh trị [5].

Theo sử liệu dẫn trong sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười, thì Tạ Văn Phụng là một người Việt Nam không rõ nguồn gốc, nhưng đã được rửa tội và nuôi dưỡng trong trụ sở Giáo hội tại Pinang. Năm 1854, Tạ Văn Phụng tự xưng là hậu duệ nhà Lê, hô hào một cuộc nổi dậy ở Quảng Yên. Nhưng sau đó, nghe lời khuyên của giám mục Retord, ông ngưng hoạt động và ẩn trốn ở Hồng Kông.

Sau khi tàu liên quân Pháp-Tây Ban Nha nả đại bác vào Đà Nẵng (1 tháng 9 năm 1858), giám mục Retord liền nảy ra ý định tạo ra một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của Pháp, và ông đã nghĩ ngay đến Tạ Văn Phụng. Tạ Văn Phụng nhận lời trở lại Bắc Kỳ vào giữa năm 1861, rồi phất cờ phù Lê và chọn cố đạo Trường [6] làm mưu sĩ. Chỉ trong vài tuần lễ, Tạ Văn Phụng chiêu mộ được một đạo quân có hơn hai vạn.

Đầu năm 1862, trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc Kỳ, tiếp xúc với Tạ Văn Phụng với mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến, nhằm gây áp lực với vua Tự Đức phải nhận ký hòa ước thua thiệt với người Pháp vào ngày 5 tháng 6 năm 1862 (Hòa ước Nhâm Tuất). Đến đây kể như số phận của "con bài Tạ Văn Phụng" đã kết thúc, vì thực dân Pháp đã đạt được thắng lợi trong giải pháp chính trị. Và bất kể tương lai cá nhân của Tạ Văn Phụng, sau khi làm tròn nhiệm vụ của mình, Ch. Duval đã rời đất Bắc ngày 17 tháng 7 năm 1863[7].

Ý đồ biến Tạ Văn Phụng thành một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của Pháp, cũng đã được linh mục Theurel đề cập đến. Ông viết:
Nếu các nhóm phản loạn đoàn kết, chúng có hy vọng thành công. Với ông vua mới này, con cái của chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hòa bình tôn giáo, và dân chúng sẽ theo vua chúng mà theo đạo. Nhưng y chỉ là một tên giả mạo [8].
Trong bài viết, tác giả Charile Nguyễn cũng cho biết rằng Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang. Năm 1858, Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Sau đó, gián điệp Duval được cử sang Việt Nam với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo. Chính Duval đã đi Macao mua vũ khí và giúp Văn Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân, rồi lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê mà dấy binh [9].

Chú thích:
[1] Trần Trọng Kim viết: Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có Nguyễn Văn Thịnh (tục gọi Cai tổng Vàng), quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam Kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lấy làm lo sợ lắm, bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa (Việt Nam sử lược, tr 494).
Còn Phạm Văn Sơn thì kèm theo lời bình như sau: Các vụ loạn ở Bắc Kỳ (trong đó đáng kể hơn cả là vụ Tạ Văn Phụng), có một điều vô cùng tai hại là vì nó mà triều đình Tự Đức phải vội vã ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với Pháp ở Nam Kỳ để rảnh tay đối phó với Bắc Kỳ. Tự Đức nghĩ rằng có ký với Pháp chăng nữa thì rồi đây lại tìn cơ khôi phục những tỉnh đã nhượng. Bắc Kỳ bấy giờ có lẽ ở trong một tình trạng khẩn trương hơn Nam Kỳ bội phần? Việc Tự Đức điều động tướng Nguyễn Tri Phương và nhiều đại tướng khác ra Bắc Kỳ bấy giờ cũng đủ hiểu (Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 146, 149 và 162).
[2] Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam chép Tạ Văn Phụng theo tướng Charles Rigault de Genouilly về đánh Quảng Nam. Sách Việt Nam sử lược (tr. 502) lại ghi là theo tướng Léonard Charner. Xét thấy, viên tướng này không mang quân đánh Quảng Nam mà là đánh Gia Định (trận Đại đồn Chí Hòa).
[3] Theo Lịch sử Việt Nam (1427-1858, tr. 84). Việt Nam sử lược (tr. 503) chép việc này ở vào tháng 3 năm Quý Hợi (1863), tức khi ấy Hòa ước Nhâm Tuất 1862 đã ký kết xong. Sử gia Phạm Văn Sơn cũng không ghi rõ khi đề cập đến vấn đề này. Trích: Trước năm 1863, Tạ Văn Phụng thấy quân triều dốc toàn lực để đối phó với mình nên cho người đi cầu viện soái phủ Nam Kỳ. Nhưng vì lúc này Pháp quân không dồi dào để chia xẻ ra Bắc, nghĩa quân lại quấy phá nhiều nơi, và việc hòa giải giữa Pháp và triều đình Tự Đức sắp xong, nên việc cầu viện của Phụng bị bỏ rơi. Sử gia tu sĩ A. Launay rất than tiếc vì việc này. Còn P. Cultru thì cho rằng bấy giờ Pháp có ý nhường đất Bắc cho Tây Ban Nha nên khước từ. Theo ý chúng tôi, Pháp không có chủ trương như thế, họ chưa ngó đến Bắc Kỳ bởi họ chưa thanh toán được hết đất đai ở Nam Kỳ mà thôi (tr. 148).
[4] Việt sử tân biên, tr. 148-149. Quốc triều sử toát yếu chép đoàn thuyền chiến của Tạ Văn Phụng bị bão đến hai lần. Một tướng thân cận của Tạ Văn Phụng tên là Độ (không rõ họ) cũng đã chết trong cuộc hành quân này (tr. 409).

[5]Cùng quan điểm này có nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt Nam. Trích: Cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng do thực dân Pháp giật dây thông qua ban tày của các gián điệp đội lốt thầy tu, cốt để triều đình Huế bối rối vì phải lo đối phó với phong trào ngoài Bắc mà sơ hở và nhượng bộ chúng trong Nam (Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2006, tr.30).
[6] Theo tài liệu này thì cố đạo Trường không phải là người Việt, mà là linh mục Le Grand de Liraye. Sau (ngày 14 tháng 10 năm 1866), cũng chính ông là người đã cùng đi với Paulin Vial với tư cách là thông ngôn ra Huế để bức bách vua Tự Đức nhượng luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho Pháp.
[7] Lược theo sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười do Nguyễn Hữu Hiếu chủ biên. Nhà xuất bản Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay hợp tác ấn hành.
[8] Theo Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn (1883-1945), Tập 1, Houston, 1999, tr. 147.
[9] Charlie Nguyễn, Hồ sơ tội ác...Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi thế kỷ 19. Bản điện tử.

Giải thích một số địa danh có ở trong bài:
-Quảng Yên là một tỉnh cũ ở phía đông Bắc Bộ, được thành lập năm 1831 dưới thời Minh Mạng. Sau này ghép với Hải Ninh thành Quảng Ninh.
-Định An hay Định Yên gồm Nam Định và Hưng Yên.
-Hải Yên hay Hải An gồm Hải Dương, Quảng Yên.
-Quỳnh Lâu và An Trì (Yên Trì) thuộc tổng Hà Bắc, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh).
-Vị Dương thuộc tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông.
-Các tổng Hạ Đoàn, Lang Thâm của huyện An Dương, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương thời nhà Nguyễn; huyện An Dương xưa nay là các vùng đất thuộc quận Lê Chân, quận Ngô Quyền và An Hải của Hải Phòng.
-Hà Lai thuộc huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên.
-Tổng Hà Nam, thuộc huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, tỉnh Quảng Yên).
-Đảo Phù Long là một đảo lớn kéo dài hơn 60 dặm ở giữa biển, thời Nguyễn thuộc tổng Hà Liên, huyện Hoa Phong (Nghiêu Phong) tỉnh Quảng Yên.
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn

Tài liệu tham khảo:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu. Nhà xuất bản Văn Học, 2002.
-Cao Xuân Dục (tổng tài), Đại Nam dư địa chí ước biên. Nhà xuất bản Văn Học, 2003.
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt. Sài Gòn, 1968.
-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 5, tập thượng). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1962.
-Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1427-1858), Quyển 3, Tập 1, Phần 1. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.

Thứ Bảy, 14 tháng 8, 2010

Huỳnh Công Lý

Huỳnh Công Lý (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành, sau đó vì phạm tội tham nhũng mà bị xử chết.

Huỳnh Công Lý (có sách chép họ Hoàng), chưa tra được thân thế, chỉ biết ông ra làm quan từ thời vua Gia Long, được phong tới tước Lý Chính hầu.

Đến khi con gái ông được tuyển vào cung, được vua Minh Mạng phong làm phi (Huệ phi), ông càng được tin cậy, từng được cử giữ chức Tả thống chế quân thị trung, rồi Phó tổng trấn Gia Định thành năm 1819, tức trong khoảng thời gian Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đang lĩnh chức Tổng trấn và Trịnh Hoài Đức đang lĩnh chức Hiệp trấn, chuyên lo việc hành chính.

Đốc suất đào kinh An Thông:
Tháng giêng năm Kỷ Mão (1819), đời vua Gia Long, Huỳnh Công Lý nhận lệnh chỉ huy việc đào kinh. Sách Quốc triều sử toát yếu (Chính biên, tr. 137) chép:
“…Khiến Phó tổng trấn Hoàng Công Lý đem 10 vạn dân, cấp tiền gạo đào sông từ thành Phiên An thông đến sông Mã Trường Giang [1]. Đào xong rồi, Ngài (Gia Long) đặt tên là An Thông Hà. Đàng sông đã thông, thuyền bè qua lại đêm ngày, chỗ ấy thành một chỗ đô hội lợi ích cho dân lắm.”

Bàn về lợi ích của con kinh, Vương Hồng Sển viết:
Khảo ra vì rạch Chợ Lớn cạn hẹp (cũng vì thế nên sau Pháp lấp bỏ) để có một con kinh rộng lớn hơn, nên năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), vua Gia Long hạ lịnh cho đào kinh Tàu Hủ (tên chữ là An Thông Hà)...Vùng Chợ Lớn thuở nay buôn bán thạnh vượng một phần lớn là nhờ kinh này. Đây là đường thủy vận nối liền Sài Gòn với các sông ngòi chảy xuống mặt Hậu Giang...và để giao dịch với thương cảng và các tàu hàng tàu buôn xuất ngoại.[2]
Ngoài ra, trong khoảng thời gian này, Huỳnh Công Lý còn hỗ trợ Bửu Thiện hầu Nguyễn Văn Phong nạo nét sông Bảo Định ở Mỹ Tho.

Đánh dẹp quân Sư Kế:
Cuối năm Đinh Mão (đầu năm 1820), vua Gia Long qua đời, sau đó Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng.

Tháng 7 (âm lịch) năm ấy, bên nước Chân Lạp có một thầy tu tên là Kế (sử Việt thường gọi là Sư Kế) vận động những người dân bất mãn ở xứ ấy tràn sang sang đánh phá vùng Quang Hóa, Quang Phong, Thuận Thành (đều thuộc trấn Phiên An). Phó tổng trấn Huỳnh Công Lý liền sai Đào Quang Lý mang quân đi cản phá không được.

Được tin báo, nhà vua mới liền sai Tả quân Lê Văn Duyệt trở vào Gia Định để cùng Hoàng Công Lý lo việc đánh đuổi, vì lúc này Trịnh Hoài Đức đã được triệu về kinh, mà Nguyễn Huỳnh Đức thì đang lâm trọng bệnh (đến tháng 9 thì mất). Đề cập đến vụ việc này, Sách Quốc triều sử toát yếu (Chính biên) chép:

Quan trấn Phiên An là Đào Quang Lý đánh không được, giặc càng hung dữ, cướp phá khắp nơi. Khi Lê Văn Duyệt đến, sai Hoàng Công Lý đem quân đánh và tư cho nước Chân Lạp thêm binh giúp sức, giặc thua chạy, Lý đem quân về…[3]

Bị xử chết:
Tuy lập được công, nhưng ngay sau đó Huỳnh Công Lý bị tố cáo là có hành vi tham nhũng. Theo đơn khiếu kiện của một số quân lính thì ông đã lợi dụng chức quyền để vơ vét tiền của dân chúng và của của họ.

Sách Đại Nam thực lục (tập 2, trang 93) chép :
Năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), tháng 9...Phó tổng trấn Gia Định là Hoàng Công Lý tham lam trái phép, bị quân nhân tố cáo hơn mười việc. Lê Văn Duyệt đem việc tâu lên. Vua bảo Nguyễn Văn Nhân và Nguyễn Văn Xuyên rằng: "Không ngờ Công Lý quá đến thế, công trạng nó có gì bằng các khanh, duy nhờ Tiên đế cất nhắc, ngôi đến phó Tổng trấn, lộc nước ơn vua, thực không phải bạc, thế mà lại bóc lột tiểu dân, làm con mọt nước. Nay tuy dùng phép buộc tội, nhưng dân dã khốn khó rồi."

Sau khi hội bàn với đình thần, nhà vua bèn cho bắt giam Huỳnh Công Lý, rồi sai Thiêm sự bộ Hình là Nguyễn Đình Thinh đến Gia Định để tra xét án. Kết cuộc, ngoài số tiền tham nhũng trên ba vạn quan, Nguyễn Đình Thinh còn phát hiện trong thời gian làm quan ở Huế, Huỳnh Công Lý đã bắt lính xây dựng ba cửa hàng gạch ở bên bờ sông Hương để tư lợi.

Đình thần luận tội, khép Huỳnh Công Lý vào tội chết. Sau khi án được nhà vua phê thuận, tháng 5 năm 1821, Huỳnh Công Lý bị xử tử tại Gia Định, số tài sản tham nhũng được chi trả lại cho quân lính và người dân bị bốc lột, cửa hàng ở Huế thì được bán để lấy tiền giúp cho cấm binh, còn con gái ông là Huệ phi bị đuổi ra khỏi cung về làm dân thường .

Bàn về giai thoại...
Lâu nay có giai thoại cho rằng, vua Minh Mạng có ý bao che Hoàng Công Lý (vì là cha vợ), và Lê Văn Duyệt đã phải dùng “Thượng phương kiếm” với quyền “tiền trảm hậu tấu” để chém chết Huỳnh Công Lý vì sợ nhà vua bao che, để rồi nhân vụ án Lê Văn Khôi (con nuôi ông Duyệt), mà nhà vua đã ra lệnh kết tội thật nặng Lê Văn Duyệt [4].

Trong tài liệu "Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs" (Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận) của Trương Vĩnh Ký, xuất bản năm 1885 có kể lại rằng trong thời gian Lê Văn Duyệt ra Huế, Huỳnh Công Lý đã có liên hệ bất chính với những bà vợ của Lê Văn Duyệt ở Gia Định...nên Lê Văn Duyệt đã chém đầu Huỳnh Công Lý, không những về tội tham nhũng, lộng quyền mà còn có chuyện liên hệ với vợ Lê Văn Duyệt nữa...[5]

Tuy nhiên, trong một bài viết, giáo sư Nguyễn Lý Tưởng đã bác bỏ chuyện Lê Văn Duyệt dùng ”quyền tiền trảm hậu tấu”. Ông viết:
Đọc lại các tài liệu chính sử của triều đình, chúng tôi không thấy nói đến chuyện này...mà chỉ thấy Lê Văn Duyệt là người thi hành pháp luật rất nghiêm minh, và làm đúng thủ tục tố tụng...Những chuyện "bên lề" về vụ án Huỳnh Công Lý, cố ý làm cho dư luận hiểu sai lạc về Tả quân Lê Văn Duyệt...đều không có bằng chứng xác đáng và không đúng sự thật [6].

Và đoạn dụ sau đây cũng cho thấy vua Minh Mạng không hề bao che hay nương nhẹ đối với cha vợ mình:
Dụ: Trước đây, Hoàng Công Lý là Thị trung tả thống chế, đã không làm rõ được ý trẫm là yêu thương binh lính. Trái lại còn lợi dụng làm giàu cho mình, làm hại người khác, sai riêng cấm binh mở ba cửa hàng gạch ngói mưu lợi riêng. Tất cả gỗ đá, gạch ngói đều cho chở về xây dựng nhưng chưa bị phát giác. Đến khi y trở lại nhận chức Phó Tổng Trấn Gia Định, lòng tham lại càng quá đáng. Nay bị binh lính, dân chúng, thợ thuyền Gia Định tố giác. Quan Tổng trấn ở đó đã tra xét rõ ràng và tấu trình. Trẫm nghĩ phạm nhân cũng là viên quan lớn ngoài biên nên giáng chỉ cho đình thần họp bàn định tội và phúc tấu. Nay đã trình lên và đều nói tội ác của Hoàng Công Lý chồng chất quá nhiều, xin chém theo luật cho mọi người biết và để răn đe sau này...Từ nay về sau bất kể quân lính trong ngoài, gặp phải các viên biền tham lam ngược đãi như vậy mà vướng chỗ quyền thế không nói ra được thì cho phép tâu trình, trẫm sẽ tìm ra căn nguyên để trị tội kẻ tham nhũng. Hãy kính theo Dụ này...Ngày 14 tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 2 (1821)[7].

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Chú thích:
[1] Mã Trường Giang do tướng Nguyễn Cửu Đàm chỉ huy đào vào mùa thu năm Nhâm Thìn (1772), nối liền Rạch Cát (Sa Giang) với rạch Bến Nghé. Vì con kinh đào thẳng như ruột ngựa, nên tục gọi là kinh Ruột Ngựa (Sài Gòn năm xưa, tr. 135).
[2] Thông tin thêm: Huỳnh Công Lý hiệp với ông Tổng Thanh tra Gia Định, điều khiển 11. 469 nhơn công, chia làm ba tốp, mỗi dân công có lãnh một số tiền và một khẩu phần, khởi công ngày 23 tháng giêng đến ngày 23 tháng 4 năm Kỷ Mão (1819) là hoàn thành, đúng ba tháng. Con kinh này bắt đầu từ cầu Đề Thông (nôm gọi cầu Bà Thuông) chạy đến ngã tư sông Rạch Cát. Sách nói kinh dài 2.129 tầm và 1 bộ, bằng 9 dặm rưỡi (5.472 m)...Nay ráp với đoạn Chợ Quán và cầu Ông Lãnh, gọi chung là kinh Tàu Hủ (Sài Gòn năm xưa, tr. 139-140).
[3] Thông tin thêm: Tháng 9 (âm lịch) năm Canh Thìn (1820), quân Sư Kế tấn công thành Nam Vang, vua nước ấy đưa thư cầu cứu. Lê Văn Duyệt liền sai Thống chế Nguyễn Văn Trí mang quân sang giúp, đến tháng 10 (âm lịch) thì Sư Kế bị quân nhà Nguyễn giết chết ở đất Ba Tầm Lai (Quốc triều sử toát yếu, tr. 146-147).
[4] Sách Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam (tập 3) có đoạn: Thẳng thắng, cứng rắn, Lê Văn Duyệt đã từng xử tử một viên quan tham nhũng là Huỳnh Công Lý, mặc dù người này có con gái là vợ vua Minh Mạng. Cho nên nhân vụ án Lê Văn Khôi (con nuôi ông Duyệt), nhà vua đã ra lệnh kết tội Lê Văn Duyệt (Nhà xuất bản Trẻ, 2007, tr. 328).
[5] Bản lược dịch của Nguyễn Đình Đầu, nhà xuất bản Trẻ, 1997, trang 32.
[6] Xem bài viết “Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt giết Phó tổng trấn Huỳnh Công Lý” của GD. Nguyễn Lý Tưởng ở đây: [http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=4924]. Nói thêm: Trong bản luận tội của đình thần, Việt Nam sử lược và Việt sử tân biên...đều không nói đến việc Lê Văn Duyệt đã dùng quyền “tiền trảm hậu tấu” để chém chết Huỳnh Công Lý.
[7] Minh Mạng, Ngự chế văn (Trần Văn Quyền dịch). Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) xuất bản, 2000, tr. 30.

Sách tham khảo chính:
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007.
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu. Nhà xuất bản Văn Học, 2004.
-Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.

Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2010

Giới thiệu Cổ Gia Định phong cảnh vịnh (bản đầy đủ)


Bản đồ Sài Gòn do Trần Văn Học vẽ năm 1815.

Giới thiệu Cổ Gia Định phong cảnh vịnh

1. Giới thiệu sơ lược:
Đây là một bài phú Nôm dài 46 câu và kết bằng một bài thơ thất ngôn bát cú, không rõ tác giả, do học giả Vương Hồng Sển sưu tầm, đặt lại tên mới là Gia Định phú và chép trong cuốn Tập Thành (bản chép tay) của ông.
Ngoài bản này, hiện còn hai bản nữa (so lại, chúng đều khác nhau ít nhiều, tuy nhiên bản của ông Sển là đầy đủ hơn cả) đó là:
*Bản Nôm dài 23 câu, do học giả Trương Vĩnh Ký sưu tầm, có tên là Cổ Gia Định phong cảnh vịnh và chép trong cuốn ''Saigon dautrefois'' của ông.
*Bản phiên âm dài 43 câu, in trong Nam Phong tạp chí số 77 tháng 11 năm 1923, mang đầu đề là Bài phú cổ Gia Định.

Bài phú này đã được Trương Vĩnh Ký công bố lần đầu với lời dẫn như sau:
Cái điệu vịnh Gia Định không rõ là của ai làm, làm có đối đáp, song quan, cách cú, gối hạc tất đủ nói về địa cảnh đất Sài Gòn thuở trước Tây (Phú Lang Sa) chưa lấy, bất nội Bến Thành, Chợ Sỏi vô tới Chợ Lớn, Chợ Gạo, Lò Gốm, Cây Gõ, Phú Lâm, Cầu Bông, Thị Nghè, Gò Vấp, đường sá, xóm làng nhà cửa phố phường chùa miếu, lại thú người trên bộ dưới thuyền đủ cả. Nói cho đến Tây Mô ô, tàu bè các nước tới lui nuôn bán thuở ấy nữa. Đặt văn đã hay mà lại kể tích cũ tận xưa cũng nêu dấu tích để truyền lại cho người sau nhớ. Có kẻ nói cái vịnh này là của ông Ngô Nhân Tĩnh ở ngụ xứ Trà Luộc làm ra mà chơi. Nhưng vậy chẳng biết thật hay không?

Theo sử liệu thì danh sĩ Ngô Nhân Tĩnh mất khoảng năm 1813, mà trong bài phú lại có nói tới nhiều việc xảy ra sau đó, như con Kinh Mới thì đến năm 1819 mới đào, ngôi miếu Bà Chúa Thai Sanh mãi đến năm 1839 mới dựng. Điều này có nghĩa: Ngô Nhân Tĩnh không phải là tác giả, và nếu có phải thì tác phẩm đã được người đời sau thêm bớt ít nhiều.
Chính vì chưa được rõ ràng, nên nhà văn Sơn Nam cũng chỉ viết rằng “bài phú này còn có tên là Gia Định hoài cổ vịnh của một tác giả khuyết danh, soạn ra trước khiLê Văn Khôi khởi binh (1833), tức thuở Quy Thành hãy còn nguyên vẹn” [1] .

2. Văn bản:
Sau đây là bài phú Nôm do Vương Hồng Sển sưu tầm, đã được nhóm tác giả sách Sài Gòn-Gia Định qua thơ văn xưa biên tập lại.

1. Phủ Gia Định![2] phủ Gia Định! Nhà đủ người no chốn chốn,
Xứ Sài Gòn! xứ Sài Gòn! ở ăn vui thú nơi nơi.
2. Lạc thổ [3] nhóm bốn dân: sĩ nông công thương ngư tiều canh độc [4],
Kim thành [5]xây tám hướng: càn khảm cấn chấn tốn ly khôn đoài.[6].
3. Lợi đất thinh thinh [7] xóm Vườn Mít,
Bầu trời vòi vọi núi Mô Xoài [8].
4. Đông đảo thay phường Mỹ Hội [9],
Sum nghiêm bấy làng Tân Khai.[10]
5. Ngói lợp vẩy lân, phố thương khách nhà ngang nhà dọc,
Hiên che [11] cánh én, nhà quan nhà dân hàng vắn hàng dài.
6. Gái nhơ nhởn tay vòng tay xuyến,[12]
Trai xênh xang chơn hớn chơn hài [13].
7. Dù võng nghênh ngang chợ Điều Khiển [14]
Quan quân rậm rật cầu Khâm Sai [15].
8. Kẻ vào Chợ Quán, ra Bến Nghé [16],
Người xuống Nhà Bè, lên Đồng Nai.
9. Coi ngoài rạch Bà Nghè [17], dòng trắng hây hây tờ quyến trải [18],
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt lá chàm rai [19].
10. Dưới bến hát lẳng lơ, giọng con đò, giọng con rổi,
Trên bờ ca khỏng khảnh, tiếng thằng mục, tiếng thằng nài [20].
11. Chợ Cây Da thằng Mọi, coi bán đủ thuốc xiêm, cau mứt [21],
Cái rạch cầu Con Miên [22], thấy làm nguyên cột vắp, ván trai [23].
12. Trên Cây Da Còm [24], nỡ để ông già đầu đội [25]
Dưới đường đi cầu Khắt[26], bỏ chi con trẻ lạc lài (loài).
13. Đường Nước Nhỉ [27]. đất tiu tiu người thương khách lại qua mát mẻ,
Quán Nước lên [28]dòng cuồn cuộn, kẻ bộ hành tắm giặt nghỉ ngơi.
14. Kho Cẩm Thảo chứa thuế vua, mạch nước sữa dân [29]Mạch nước sữa dân ai dám phá,
Chùa Kim Chương [30] làm tôi Phật tương chua muối mặn sãi trường chay.
15. Kinh Gạo [31], người bán gạo, lưng vơi chẳng dám điều hết kiếp,
Chợ Rau, kẻ buôn rau, mắc rẻ ở ăn cái đồng nài [32].
16. Trong làng Cây Gõ [33], nhà bền rường cột,
Ngoài chợ Cây Vông [34], chất đống chông gai.
17. Nhắm kinh Mới[35]như chỉ giăng đường đất,
Đi chợ Hôm [36] vừa tối sập mặt trời.
18. Chùa Cẩm Đệm [37]nên nghiêm, rực rực thấy thầy nằm nệm gấm,
Xóm Hoa Nương [38] đua nở, dầy dầy coi khách bẻ ngụy người.
19. Trong Chợ Lớn [39] thinh thinh, góp nhóp bốn phương đủ hết loài rừng vật biển,
Trên cầu Quan [40] lồ lộ, lại qua mấy phía, thảy đều chú đội cậu cai.
20. Giếng Bà Nhuận [41] mạch cam tuyền, trai gái thảy thỏa tình khát vọng,
Cầu Bà Thuông [42] đường quan lộ, gần xa đều phỉ chí quy lai.
21. Chói chói bấy! chùa Ông Quan Đế [43], chí trung nghĩa cao xa ngàn thuở,
Thăm thẳm thay! miếu Đức Thánh Nhân [44]mối tư văn [45] dựng để muôn đời.
22. Nhìn thấy chùa Ông Bổn Đầu Công [46], dám quên chữ ngọn rau tấc đất,
Ngó thấy miếu Công Thần [47] chủ vị, chạnh tưởng câu niềm chúa nghĩa tôi.
23. Kẻ lâm dâm vái Bà Chúa Thai Sanh [48], xin mẹ tròn con vuông, chẳng sanh trai thời sanh gái,
Người ký cúc lạy chùa Bà Mã Hậu [49], xin thuận buồm xuôi gió, đi đến chốn về đến nơi.
24. Cắc cớ [50] chợ Lò Rèn [51], chát chát tựa nhà Ban [52] đánh búa,
Lạ lùng xóm Lò Gốm [53], chạy vo vo như Bàn Cổ [54] xây trời.
25. Khỏi lo bề lẩm nhẩm dầm sương, rong vát người đi đường chợ Sỏi [55],
Hằng lấy kẻ gầu hào, xúc ốc, nồng nã kẻ ở xóm Lò Vôi [56].
26. Gắng gỏi bấy cho đàn bà xứ Gò Vấp [57]
Thanh thao thay hình hòa thượng chùa Cây Mai [58]
27. Giếng Hàng Xáo [59]múc dập dìu, kẻ chở thuyền người chuyên bộ,
Xóm Cối Xay [60] àm tở mở, chồng sửa họng vợ đục tai.
28. Trong Cầu Đường [61] bào chuốt ngọt ngon, đủ đường phổi, đường cát, đường phèn, đường hạ,
Ngoài Xóm Bột [62] phơi phong trắng dã, nhiều bột mì, bột đậu, bột lọc, bột khoai.
29. Đồng Tập Trận [63] rộng cả ngàn, coi xấp xỉ bằng Thái nguyên dã,
Mô Súng [64]đắp cao trật gót, nhắm sâm si dường vọng vân đài.
30. Chốn thi trường [65] lẩy lẩy nho sinh, đều nhắm cánh hộc hồng, một thuở bảng vàng lăm chiếm,
Nhà quốc học dầy dầy sĩ tử, gắng gia công đèn sách, mười thu nghiêng sắt chuyên mài.
31. Cầu Cây Gõ [66] trầy trầy, hốt gẫn hổ ngươi cho cái cầu Ông Bính,
Quán cao lâu vòi vọi, đành hay mắc cỡ cho cái quán Bà Cai.
32.Trước phố phường bày hàng bày hóa
Sau nhà quê trồng bắp trồng khoai.
33. Thuyền An Nam lui tới, ghe đen mũi ghe vàng mũi [67] vào ra coi lòa nước,
Người phương Đông qua lại, tàu xanh mang, tàu đỏ mang hàng hóa chất ngất trời.
34. Trọ trẹ ở dưới sông, quân Huế kéo nhau hò “hố hụi”
Lô xô dầy trên chợ, khách già lạu chèo ỏi “ài ô”.
35. Lều thầy bói [68] cắm bên đường, thấy gieo tiền hào [69] sách hào đơn mà quyết đoán quẻ rằng linh quẻ,
Bọn quân phường ngồi dưới cội, nghe đổ sứa hồi khoan hồi nhặt, giọng dầy vang hơi thiệt tốt hơi [70].
36. Phiêu diêu cho chú ở dưới ghe, nghề nghiệp ruổi đầu sông đổi nước,
Cắc cớ bấy ông ngồi trên trại, máy móc làm cái ống dòm trời.
37. Lũ Tây dương da trắng bạc, mồm giợt giạt, miệng dứt lác [71], tóc quăn co, tưởng thần qủy, thần ma, thần sát,
Quân Ô-rô mặt đen thui, môi tếch tác, đầu quăn chít, ngỡ thiên bồng, thiên tướng, thiên lôi [72]
38. Con bưng rổ te te chạy vát,
Thằng cầm chèo hất hất đứng coi.
39. Lính nghèo ngoài cửa kéo chổng khu, tội báo ham vui chơi con thỏa,
Trùm ruộng trong ghe xui mất của, thương vì vác mặt ngó cái đòi.
40. Nhiều nhà giàu một lạ một lùng, có kẻ giàu dư muôn dư triệu,
Mấy ai khó cho bần cho thiểu, khó không trơn bề đất cắm dùi.
41.Chốn chốn phong hoa ca vịnh,
Nhà nhà lịch sự vui chơi.
42.Lũ bảy đoàn ba, rật rật thấy ban mai khách trúc,
Kẻ qua người lại, dầy dầy nghe lạc ngựa chuông voi.
43. Nhắm cảnh vật lịch ư quá lịch,
Nhìn phong quang vui rất đổi vui.
44. Muốn nói mà chẳng hay vừa hết,
Muốn coi mà chẳng hay vừa thôi.
45. Tôi nay học còn muốn học,
Tài hãy sơ tài.
46. Mặt thấy dân khang vật phụ [73],
Tình ưng xúc cảnh hứng hoài:
Bỡ ngỡ lầy tây xế bóng hường,
Trông chừng non nước chạnh quân vương.
Lơ thơ nội lục cây mờ khói,
Man mác non xanh lá đượm sương.
Đèn thỏ mãi chờ miền hải đảo,
Thuyền ngư vắng nhóm bãi Tiêu Tương [74].
Lẽ hằng đắp đổi theo hôm sớm,
Cơn cớ chi người luống chạnh thương.

3. Chú thích:
1.Bến nghé xưa, tr. 42.
2.Phủ Gia Định: Đơn vị hành chính này do thống suất Nguyễn Hữu Cảnh lập năm 1698. Trong quá trình Nam tiến, đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, lãnh thổ miền Nam được sắp xếp lại và đất Gia Định thuộc dinh Phiên Trấn. Ở thời điểm tác giả làm ra bài này (phỏng định ở đầu thế kỷ 19), phủ Gia Định đã không còn tồn tại, nhưng cái tên ấy thỉnh thoảng vẫn còn được dùng do thói quen. Như ở đây tác giả dùng cái tên “phủ Gia Định” để chỉ vùng Sài Gòn vàChợ Lớn.
3.Lạc thổ có nghĩa như lạc cảnh, tức cảnh vui.
4.Theo quan niệm của người Việt xưa, thì ngư, tiều, canh, độc (đọc sách) là tứ ẩn, tức là bốn cái thú điền viên, xa lánh trần tục.
5.Kim thành (bản Trương Vĩnh Ký chép là Quy thành) tức "Thành Gia Định" hay "Thành Phiên An" do chúa Nguyễn Phúc Ánh ra lệnh khởi công xây dựng vào ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất (1790) tại làng Tân Khai. Theo Trương Vĩnh Ký thì trung tâm tòa thành ở đúng vị trí nhà thờ Đức Bà hiện nay. Tòa thành có 8 cạnh nên còn gọi là "Thành Bát Quái" hay "Thành Quy". Năm 1835, sau khi đánh dẹp cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng sai phá thành cũ, xây thành mới gọi là "Thành Phụng". Năm 1859, quân thực dân Pháp tấn công thành. Và sau khi thành bị đánh hạ, họ đã phá hủy hoàn toàn.
6.Đây là 8 quái trong Bát quái.
7.Chưa rõ nghĩa, nhưng rất có thể như thênh thênh, tức rộng rãi, đối với từ vòi vọi (rất cao) ở câu dưới.
8.Xóm Vườn Mít ở lối đường Nam Kỳ khởi nghĩa, nơi đặt Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh. Vương Hồng Sển cho biết ngày xưa dân nghèo ở đây lấy hột mít xay ra bột để bán (Sài Gòn năm xưa, tr. 149 và Sài Gòn tạp phín lù, tr.367). Núi Mô Xoài còn gọi là núi Dinh ở Bà Rịa.
9.Thôn Mỹ Hội bắt đầu từ mé kinh Cây Cám (là con kinh ở phường Bến Nghé, do kỹ sư Bovet đề xuất đào năm 1867, bị lấp năm 1892. Cây Cám là loại cây, lá có phấn mịn như cám, mọc cạnh kinh) chạy đụng ranh làng Tân Khai. TheoVương Hồng Sển thì "thành phố Sài Gòn" buổi ấy nằm trên phần đất thôn Mỹ Hội (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 100).
10.Làng Tân Khai, tục danh là "Chợ Sỏi" hay Bến Sỏi" (vì bến sông có nhiều cát sỏi), hay Vàm Bến Nghé", ranh đất giáp với đường Trường Tiền (đầu đường có sở đúc tiền thời chúa Nguyễn lập năm 1796), tức đường mé sông lối Cầu Mống. Khi xưa, đường mé sông nhà cửa đông đúc lớp trên bờ, lớp dưới mé nước, chạy dài chen chúc khúc khít nhau (Trịnh Hoài Đức ghi là chợ phố Lịch Tân), có bến tắm ngựa. (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 100 và Sài Gòn- Gia Định qua thơ văn, tr. 270).
11.Bản Trương Vĩnh Ký chép là "sè", có nghĩa là thấp lắm.
12.Nho nhởn có nghĩa vui vẻ, không lo lắng (Thanh Nghị, tr. 1020). Bản Trương Vĩnh Ký chép là: "Gái nha nhuốc tay vòng tay kiểng". Kiểng là vòng đeo ở chân hoặc ở cổ. Xuyến là vòng đeo ở cổ tay. Vậy, chữ "xuyến" dùng trong bản này đúng hơn.
13.Chơn hớn (hán) chơn hài có nghĩa là chân giày chân dép.
14.Chợ Điều Khiển được lập năm 1731, nằm gần đồn Dinh (ở góc đường Nguyễn Trãi với Phạm Ngũ Lão ngày nay) thời chúa Nguyễn. Nguyễn Đình Đầu giải thích: "Chợ này nằm gần đường quan lộ (nay là đường Nguyễn Trãi) giữa Ngã Sáu với chợ Thái Bình, tức nằm ở góc đường Nam Quốc Cang, khoảng gần nhà thờ Chợ Đũi bây giờ (Địa chí tập 1, tr. 164)
15.Rậm rật: "Thôi thúc trong lòng đến mức khó có thể dừng được" (Nguyễn Như Ý chủ biên, Từ điển Tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo Dục, 1996, tr.919). Cầu Khâm Sai là chiếc cầu bằng gỗ nằm cuối đường Kim Biên, phường 13, quận 5, do một viên quan làm chức khâm sai tạo lập, nên có tên ấy. Về sau, cầu bị phá bỏ.
16.Chợ Quán còn gọi là chợ Tân Kiểng. Đây là một trong số ít ngôi chợ có từ nửa cuối thế kỷ 18 ở trấn Phiên An. Gọi là Chợ Quán vì thuở trước chợ nhóm ở lối nhà thương Chợ Quán (nay là Trung tâm Bệnh Nhiệt Đới ở số 190 Bến Hàm Tử, phường 1, quận 5), chung quanh chợ có nhiều quán xá. Bến Nghé là tên chỉ vùng đất trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Theo Vương Hồng Sển, thì người Việt đã tụ tập ở đây từ 1790 (Sài Gòn năm xưa, tr. 88).
17.Rạch Bà Nghè, tức rạch Thị Nghè (tên chữ là Bình Trị Giang), là một con rạch (hoặc sông) bắt nguồn từ rạch Nhiêu Lộc đổ ra sông Sài Gòn.
18.Tờ quyến: tờ giấy mỏng thường dùng để vấn thuốc lá.
19.Giồng Ông Tố là vùng đất cao ở Thủ Đức. Khi xưa, cây giâu gia (hay dâu gia, giâu da) mọc đầy ở đây, người Xiêm La sang Sài Gòn buôn bán gọi cây này làchàm rai.
20.Con rổi: người đi bán cá (theo Sài Gòn-Gia Định qua thơ văn xưa, tr. 263). Thằng mục: người chăn nuôi súc vật. Thằng nài: người cỡi voi hay ngựa.
21.Theo Huỳnh Minh (tr. 88) thì Chợ Cây Da thằng Mọi tức là chợ Điều Khiển. Tuy nhiên, theo Vương Hồng Sển thì đây là hai ngôi chợ ở gần nhau. Và vì chợ ở cạnh gốc cây da, thường bán loại chân đèn bằng gốm, hình người màu đen (Vương Hồng Sển ghi là người Chàm), đội trên đầu dĩa đèn chứa dầu phộng hay dầu dừa, nên có tên này. Thuốc xiêm: thuốc lá xắt và ướp theo cách ngườiXiêm La.
22.Cầu Con Miên: Chắc lỗi lúc in ấn, ghi đúng là cầu Cao Miên, nay là cầu Bông, bắc qua rạch Thị Nghè nối quận 1 với quận Bình Thạnh. Trịnh Hoài Đức cho biết năm 1736, triều đình Chân Lạp lại xảy ra việc tranh chấp ngôi vua, buộc Nặc Tha chạy sang Gia Định. Sau khi được phép ở chỗ này, Nặc Tha bèn cho làm cầu ván bắc qua sông để tiện việc qua lại, được người đời gọi là cầu Cao Miên. Sau đổi là Cầu Hoa, rồi vì kỵ úy bà Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng) nên đổi là Cầu Bông.
23.Vắp là tên cây, âm gốc từ tiếng Khmer là Kompăp. Đây là một loại danh mộc, cây cao, gỗ cứng chắc. Gia Định thành thông chí chép: "Cây váp, lá như lá khê, thân cao xỏng, cứng chắc, sắc tím đen, muốn dùng làm đồ xài thì dùng lúc cây mới đốn còn tươi, để lâu thì dao búa đẽo cũng không vào, chịu đựng được nước mưa, đốt làm than để nấu đồng sắt, rất cần cho việc quốc gia. Cũng theo sách này, thì "cây trai (chay) có lá nhỏ mà dài, cành thẳng lên như cán chổi, gỗ bền chắc, trăm năm không mục, lâu ngày gân cây như răng lược, người ta thường dùng làm quan quách và cột mốc giới" (quyển 5, Sản vật chí).
24.Cây Da Còm là một cây da nhánh còm, lá gie khòm xuống mặt đất. Bên cây da này có chợ gọi là chợ Cây Da Còm. Sau, nhà cầm quyền Pháp cho dẹp chợ và cất lên Khám Lớn Sài Gòn (Maison Centrale de Saigon), nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ở số 69, đường Lý Tự Trọng, phường Bến Thành, quận 1.
25.Thời thái bình, theo Mạnh Tử thì không có cảnh “lão giả bất phụ đai ư đạo lộ” (ông già không gùi đội nơi đường sá). Tác giả dùng tích này có ý nói ngược lại.
26.Cầu Khất: Cầu có nhiều trẻ em ăn xin. Bản Trương Vĩnh Ký chép là Cầu Khắcvà giải thích đây là cầu Bà Châu (còn một cái cầu trùng tên ở ngoài chợ Cầu Kho nay thuộc phường Cầu Kho, quận 1). Xét ra, cái tên Cầu Khắc hợp lý hơn.
27.Trịnh Hoài Đức chép: "Phía bắc chùa Kim Chương có suối nước ngọt bốn mùa dưới đất chảy tràn ra ướt dầm cả đường đi". Trương Vĩnh Ký giải thích thêm rằng vì con đường thường bị ngập lụt, tư mùa ẩm ướt nên có cái tên này. Theo Sài Gòn-Gia Định qua thơ văn xưa' thì đường Nước Nhĩ nay là khúc đường Cống Quỳnh thông qua đường Phạm Ngũ Lão (tr.268).
28.Quán Nước Lên là quán nằm ở trên khúc đường Lò Gốm xuống ngã tư rạch Lào thuộc quận 8 bây giờ.
29.Kho Cẩm Thảo còn gọi là kho Giản Thảo ở làng Tân Triêm, do chúa Nguyễn sai lập năm 1741. Đây là dãy nhà kho chứa lúa thuế từ Nam Kỳ lục tỉnh chở lên nộp cho triều đình. Trên bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815, nó được vẽ rõ rệt (hình vuông, có sông rạch bao quanh). Vị trí kho nay là nhà thờ Chợ Kho. Mạch nước sữa dân, ý nói số lúa này dành để phục vụ cho dân cho nước.
30.Chùa Kim Chương hay Kim Chung Tự. Chùa này lại xây trên một nền chùaChân Lạp đã có trước đời Gia Long. Theo Trương Vĩnh Ký thì chúa Nguyễn Phúc Thuần và chúa Nguyễn Phúc Dương đều bị quân Tây Sơn hành quyết tại đây lối năm 1777. Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ (1861), chùa Kim Chương đã được tháo dỡ đem về xã Mỹ Thiện (nay là xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnhTiền Giang).
31.Kinh Gạo ở vùng Chợ Quán, và vì nằm trong xóm chuyên bán gạo nên có tên này. Cây cầu bắt qua kinh này cũng gọi là cầu Gạo.
32.Chợ Rau là Chợ Rẫy ở chỗ bệnh viện Chợ Rẫy ngày nay (Bến Nghé xưa, tr. 21). Nài ở trong câu này có nghĩa là cố mời, cố xin.
33.Làng Cây Gõ ở vùng Phú Lâm, nay thuộc quận 6.
34.Chợ Cây Vông khi xưa ở lối nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (ngày nay là Công viên Lê Văn Tám thuộc quận 1), gần cầu Bông.
35.Kinh Mới tức kinh Tàu Hủ do phó tổng trấn Gia Định Huỳnh Công Lý đốc suất đào năm 1819. Khi đào xong, được nhà vua cho đặt tên là An Thông hà, tục gọi là Kinh Mới, Pháp gọi là Arroyo Chinois. Và vì chảy ngang Chợ Lớn nên còn gọi là Rạch Chợ Lớn. Trong Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận (năm 1885), Trương Vĩnh Ký viết: "Hai bên bờ rạch Chợ Lớn là hai dãy nhà phố lớn bằng gạch gọi là Tàu Khậu để cho người Hoa từ Trung Quốc hàng năm đi ghe biển tới thuê. Họ đem hàng hoá chứa trong các phố đó, hoặc để bán sỉ hoặc để bán lẻ khi lưu trú tại Sài Gòn". Theo Huỳnh Tịnh Của thì từ Thổ Khố (tức là khu nhà lớn bằng gạch để chứa hàng hóa), người Triều Châu phát âm từ Tàu Khậu, sau đọc trại ra thành Tàu Hũ. Sơn Nam trong Bến Nghé xưa (tr. 35) cũng ghi là kinh Tàu Hủ. Bản Trương Vĩnh Ký giải thích Kinh Mới là kinh Ruột Ngựa do quan Nguyễn Cửu Đàm cho đào vào mùa thu năm Nhâm Thìn (1772), phá một đường sình lầy để đào con kinh thẳng như ruột ngựa, nên gọi là "Mã Trường Giang".
36.Chợ Hôm lúc bấy giờ nhóm lúc chiều tối ở quảng đường từ Bệnh viện Phước Kiến (nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi vào Chợ Lớn.
37.Chùa Cẩm Đệm tức chùa Giác Lâm, còn gọi là chùa Cẩm Sơn, dựng năm1774 (Bến Nghé xưa, tr. 18). Có người cho rằng buổi đầu có một cư sĩ tên Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, đến cuộc đất cao ráo ở Phú Thọ dựng một am lá. Người địa phương gọi cư sĩ ấy là ông Cẩm Đệm và ngôi thờ tự ấy là am (sau là chùa) Cẩm Đệm. Nhưng theo nhóm Nguyễn Khuê, gọi Cẩm Đệm là vì gò Cẩm Sơn cỏ mọc xanh mướt, điểm hoa dại trông như gấm thêu (tr. 269). TrongGia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cũng đã khen ngợi cảnh chùa như sau: "Ở trên gò Cẩm Sơn, cách lũy Bán Bích về phía tây 3 dặm, gò chùa nầy như đống vàng bỗng nổi lên giữa chỗ đồng bằng trải thẳng cả trăm dặm…, cây to thành rừng, hoa núi dệt gấm, sớm chiều mây khói bốc lên quấn cuộn, tuy nhỏ nhưng lý thú" (mục Thành Trì Chí). Theo Vương Hồng Sển, thì Tư Mắt, tay anh chị nổi tiếng một thời khi già thường đến nghe kinh niệm Phật tại đây (Sài Gòn năm xưa, tr. 213).
38.Xóm Hoa Nương nằm tại trung tâm Chợ Lớn, nhưng chưa biết ở lối nào. Vương Hồng Sển cũng chỉ ghi như thế này: Tục lệ thành Sài Gòn và Chợ Lớn, cho đến về sau lâu lắm mới dẹp là dân trong thành phố hễ quá mười giờ đêm muốn ra đường phải xách theo một lồng đèn, lại nữa riêng Chợ Lớn, xóm của gái điếm cũng gọi "Xóm Lồng Đèn", đã là xóm huê nương tức nhiên phải về khuya, khách làng chơi cơm nước phủ phê rồi mới xách lồng đèn đến thăm, sự ấy cũng dễ hiểu (Sài Gòn năm xưa, tr. 152.
39.Chợ Lớn là trung tâm điểm của vùng Đề Ngạn xưa (theo Vương Hồng Sển thìngười Hoa đã tụ tập ở đây từ năm 1778 [Sài Gòn năm xưa, tr. 88]). Chợ ven kinh, buôn bán sầm uất tại khu vực Bưu điện Chợ Lớn thuộc quận 5 hiện nay.
40.Cầu Quan, tục gọi là cầu Gọ, ở ngang Thủ Thiêm, gần xóm Thủy Trại. Sở dĩ có tên Cầu Quan là vì trong xóm có nhiều quan viên ở. Nơi đây vẫn còn một ngôi đình mang tên Đình Cầu Quan (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 116-117.
41.Nhóm Nguyễn Khuê giải thích đấy là giếng chùa Bà, gần chùa bà Thiên HậuChợ Lớn. Vì nước tốt và ngọt nên còn gọi là giếng Cam Tuyền (tr. 269).
42.Cầu Bà Thuông tên chữ là Thị Thông kiều. Cầu ở đầu kinh An Thông hà, do phó tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý đốc suất đào năm 1819.
43. Chùa (thật ra là miếu) Ông tọa lạc tại số 676-678 đường Nguyễn Trãi, quận 5, do người Hoa khởi dựng từ năm 1840, thờ Quan Công, nhân vật thời Tam Quốc. Ðây cũng là nơi hội họp của người Triều Châu nên còn gọi là "Nghĩa An Hội Quán" (Nghĩa An là tên một vùng đất ở Quảng Đông, Trung Quốc, nơi đa số người Triều Châu sinh sống). Ngoài ra, trong Chợ Lớn còn có “ít nhất” bốn nơi thờ Quan Võ Đế nữa đó là: Phước An hội quán (đường Hùng Vương, Bửu Sơn Hội quán (đường Xóm Vôi) và Nghĩa Nhuận Hội quán (đường Gò Công). Theo Sài Gòn năm xưa, 208-209.
44. Miếu Đức Thánh Nhân tức Văn Thánh miếu thờ Khổng Tử dựng năm Minh Mạng thứ 5 (1824) nhưng nay đã mất dấu. Chỉ biết ngôi miếu khi xưa ở địa phận thôn Phú Mỹ (Thị Nghè), huyện Bình Dương, phía đông tỉnh thành Sài Gòn (Gia Định xưa, tr. 63), tức ở lối cầu Văn Thánh bây giờ. Đàn Xã Tắc cũng được lập tại đây, nhưng nay cũng không còn chút dấu tích gì (Sài Gòn năm xưa, tr. 221).
45.Tư văn: lễ nhạc, chỉ giới văn học, giới làng nho (Thanh Nghị, tr. 1278)
46.Chùa Ông Bổn Đầu Công tức Miếu Nhị Phủ, hiện tọa lạc tại số 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5. Ông Bổn, vị thần được thờ chính trong chùa, theo nhiều người đó là thái giám Trịnh Hòa đời nhà Minh.
47.Miếu Công Thần tức đền Hiển Trung ở địa phận thôn Tân Triêm xưa, trong vòng thành Ô Ma (Camp des mares) nằm bên đường Nguyễn Trãi ngày nay. Đền do chúa Nguyễn Phúc Ánh sai dựng năm 1804 để thờ 1.015 vị công thần thời đánh nhau với quân Tây Sơn. Năm 1945, đền đã bị quân Pháp phá bỏ sau khi quân Nhật rút đi (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 97 và 154).
48.Bà Chúa Thai Sanh là vị thần chuyên coi việc sinh đẻ theo tín ngưỡng củangười Hoa. Ngôi miếu thờ vị thần này được lập năm 1839, ở cạnh chùa Ông Quan Đế đã ghi trên.
49.Chùa Bà Mã Hậu tức chùa Bà Thiên Hậu (Chợ Lớn), hiện tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi.
50.Cắc cớ: Đùa bỡn, trêu chọc (Thanh Nghị, tr. 201).
51.Chợ Lò Rèn ở chỗ nhà thờ Cha Tam ngày nay tức ở khu vực đường Học Lạc, phường 14, quận 5.
52.Theo Sơn Nam (Bến Nghé xưa, tr. 90) thì Ban ở đây là Lỗ Ban (tên thật là Công Thâu Ban), tương truyền là ông tổ của nghề mộc. Trương Vĩnh Ký chỉ chú thích nhà Ban là lò rèn.
53.Xóm Lò Gốm ở làng Phú Lâm, bên rạch Lò Gốm.
54. Bàn Cổ được coi là vị thần khai thiên lập địa, sáng tạo ra vũ trụ trong thần thoại Trung Quốc.
55. Chợ Sỏi xem chú thích làng Tân Khai ở câu 4.
56.Xóm Lò Vôi ở bên sông Bến Nghé, ngay lối rạch Ông Bé (nay thuộc quận 8) chảy vào trong Chợ Lớn (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 100).
57. Gò Vấp tức "gò có nhiều cây vắp" (vắp nói trại thành vấp). Người Chàm gọi cây này là Krai và xem như là thần mộc, yểm hộ cho dân tộc họ. (Gia Định xưa, tr. 93). Xứ Gò Vấp xưa nay là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Chùa Cây Mai tọa lạc trên gò Mai, thuộc Gia Định xưa. Trong thời Pháp thuộc, ngôi chùa đã bị tháo gỡ, chỉ còn lại gò Mai gần như phẳng lì, nằm ở góc đường Hồng Bàng-Nguyễn Thị Nhỏ thuộc phường 16, quận 11.
59.Trước khi vô đến Chợ Lớn, ngang Xóm Than (chỗ này ghe từ lục tỉnh lên thường neo đậu) có một cái giếng gần mé sông, tên gọi là Giếng Hàng Xáo. Nước tốt nên người dân đua nhau đến giếng này để giành giựt đổi chác (Sài Gòn năm xưa, tr. 133).
60.Xóm Cối Xây ở trong hẽm thuộc khu vực chợ Cây Da Thằng Mọi.
61.Cầu Đường bắt qua rạch Cầu Đường ở trong xóm bán các loại đường thuộc Chợ Lớn.
62.Xóm Bột xưa ở quãng từ Chợ Quán đến Bệnh viện Phước Kiến (nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi). Đi tới nữa thì gặp Chợ Hôm, nhóm lúc chiều tối (Sài Gòn năm xưa, tr. 157(.
63. Đồng Tập Trận còn gọi là Mả Ngụy hay Mả Biền Tru. Nơi đây vua Minh Mạng đã sai chặt đầu ném thây chôn chung một chỗ trên ngàn người theo Lê Văn Khôi. Nay ở khu vực đường Lý Thái Tổ.
64.Mô Súng ở góc đường Cách mạng Tháng Tám và Kỳ Đồng ngày nay.
65.Trường thi Hương Gia Định ở địa phận thôn Hòa Nghĩa, phía tây tỉnh thành, nay là Nhà văn hóa Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quận 1.
66.Cầu Cây Gõ ở đoạn đường Minh Phụng bắc qua rạch Lò Gốm.
67.Thời trước mũi ghe thuyền của mỗi tỉnh phải sơn màu khác nhau cho dễ phân biệt, như ghe Sài Gòn thì sơn mũi màu đỏ.
68.Trương Vĩnh Ký chú thích: "Dãy lều thầy bói ở bên đường lối chợ Cây Da Còm đi vào chợ Đũi" (dẫn lại trong Sài Gòn-Gia Định qua thơ văn xưa, tr. 277). Còn theo Vương Hồng Sển thì: "Khúc chợ sung túc hơn cả thì ở vào khoảng từ cột cờ Thủ Ngữ chạy đến đầu cầu Mống mút đường Công Lý, xóm này có tên riêng là Dãy Thầy Bói cũng gọi là Đường Thợ Tiện. Đây là dãy nhà đẹp nhứt thuở “cựu trào” (Sài Gòn năm xưa, tr. 126).
69. Hào: Một trong sáu vạch của một quẻ trong Kinh Dịch.
70.Câu này tả cảnh những người ăn xin ngồi dưới bóng cây, nhịp sứa (làm bằng hai miếng cây cong cong) nói thơ để xin tiền khách đi đường (theo Trương Vĩnh Ký, sách đã dẫn, tr. 277). Theo Sơn Nam thì: Giữa Cầu Kho và Chợ Quán thời chúa Nguyễn là xóm ăn mày (Bến Nghé xưa, tr. 38).
71.Dức lác: la lối.
72.Thuở ấy có những người Java (thuộc Nam Dương) đến Sài Gòn mua bán. Đối với con mắt người Việt lúc bấy giờ, thì họ trông thật dị dạng (theo Trương Vĩnh Ký, sách đã dẫn, tr. 277).
73.Khang có nghĩa là yên vui, yên ổn. Vật phụ chưa biết nghĩa.
74.Tiêu Tương là nơi hợp lưu của hai con sông Tiêu Thủy và Tương Thủy ở địa phận huyện Linh Lăng tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Tác giả dùng từ này có ý nói cảnh sông ở Gia Định cũng đẹp tựa Tiêu Tương, nhưng tiếc rằng bến đã vắng tàu thuyền. Tám câu cuối, tác giả có ý cảm hoài.


Vị trí thành Bát Quái so với sông Sài Gòn năm 1795 do Le Brun vẽ

4. Phụ chép bản do Trương Vĩnh Ký sưu tầm:
Đây là bài phú Nôm do Trương Vĩnh Ký sưu tầm, viết lời dẫn (đã giới thiệu ở bên trên) và chú thích.
Nay chép lại đúng nguyên văn, không chỉnh sửa lại theo cách viết bây giờ. So với bản do Vương Hồng Sển sưu tầm thì bản này thiếu nhiều câu.

1. Phủ Gia Định [1], phủ Gia Định, nhà đủ người no chốn chốn,
Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn, ở ăn vui thú nơi nơi.
2. Lạc thổ nhóm bốn dân, sĩ nông công thương ngư tiều canh độc
Quy thành [2] xây tám cửa, càn khảm cấn chấn tốn ly khôn đoài.
3. Lợi đất thinh thinh xóm Vườn Mít [3],
Bầu trời vòi vọi núi Mô Xoài.
4. Đông đảo thay phường Mỹ Hội
Sum nghiêm bấy làng Tân Khai [4].
5. Ngói liễn đuôi lân, phố thương khách nhà ngang nhà dọc,
Hiên sè cánh én, nhà quan nhà dân hàng vắn hàng dài.
6. Gái nha nhuốc tay vòng tay kiểng.
Trai xênh xang chơn hớn chơn hài [5].
7. Dù võng nghênh ngang chợ Điều Khiển
Quan quân rậm rật cầu Khâm Sai [6].
8. Trên Cây Da Còm nỡ để ông già gúi đội [7],
Dưới đường cầu Khắc chi cho con trẻ lạc lài [8].
9. Đường Nước Nhỉ [9] chảy tiu tiu người thương khách lại qua hóng mát,
Quán Nước lên [10] dòng dờn dợn khách bộ hành tắm giặt nghỉ ngơi.
10. Kho Cẩm Thảo [11] chứa thuế vua, mạch nước sữa dân ai dám đá?
Chùa Kim Chương [12] làm tôi Phật tương chua muối mặn sãi trường chai [13].
11. Trong làng Cây Gõ nhà bền rường cột,
Ngoài chợ Cây Vông [14] giậu cặm gốc gai.
12. Nhắm kinh Mới [15] như chỉ giăng đường đất,
Đi chợ Hôm vừa tới sập mặt trời.
13. Kẻ lâm dâm vái Bà Chúa Thai Sanh [16] xin mẹ tròn con vuông chẳng đặng trai thì đặng gái,
Người ký cúc lạy chùa Bà Mã Hậu [17] xin thuận buồm xuôi gió đi đến chốn về đến nơi.
14. Cắc cớc chợ Lò Rèn [18] nghe chạc chạc nhà Ban đánh búa,
Lạ lùng xóm Lò Gốm [19] chơn vò vò như Bàn Cổ xây trời.
15. Khỏi lo bề lảm nhảm đám sương, rong vát người đi đường chợ Sỏi [20],
Hằng thấy kẻ hầu hào xóc ốc, nồng nào kẻ ở Lò Vôi [21].
16. Gắng gỏi bấy cho đàn bà xứ Gò Vấp [22],
Thanh thao thay ông hòa thượng chùa Cây Mai.
17. Giếng Hàng Xáo [23] múc lao xao, kẻ chở thuyền người chuyên bộ,
Xóm Cối Xay làm chạc chạc, chồng sửa họng vợ trổ tai.
18. Trước phường phố bày hàng bày hóa
Sau nhà quê trồng bắp trồng khoai.
19. Đồn tiếng Nam châu thì đã phải ghe đen mũi, ghe vàng mũi vào ra coi lòa nước [24],
Người phương đông qua lại bán buôn, tàu xanh mang, tàu đỏ mang hàng hóa chất ngất trời.
20. Trọ trẹ ở dưới sông, quân Huế kéo nhau hò hố hỉn
Xi xô inh đường cái, khách già rao kẹo ổi chau ôi.
21. Dãy thầy bói [25] nhóm bên đường, thấy gieo tiền hào sách hào đơn, lời kỳ cục quẻ rằng linh quẻ,
Bọn quân phường [26] ngồi dưới cội, nghe đổ sứa hồi khoan hồi nhặt, giọng oan ương hơi thiệt tốt hơi.
22. Phiêu diêu cho chú ở dưới ghe, nghề nghiệp ruổi đầu sông đổi nước,
Cắc cớ bấy ông ngồi trên trại, máy móc làm cái ống dòm trời.
23. Lũ Tây dương da trắng bạc, mồm giợt giạt, miệng xếch xác giống thần qủy thần ma thần sát,
Quân Ô-rô mặt đen thui thể lọ nồi, đầu quăn riết, miệng trót môi in thiên bồng thiên tướng thiên lôi.
24. Con bưng rổ te te chạy vát,
Thằng cầm chèo hất hất đứng coi [27].

Trương Vĩnh Ký chú thích:
[1] Gia Định: là tên chung khi trước kêu cả Nam Kỳ lục tỉnh. Ban đầu thì đặt là phủ mà thôi mà đây là chỉ về phủ Gia Định là Bến Thành Chợ Sỏi Chợ Lớn.
[2] Kêu Quy thành theo bát quái vì có làm ra 8 cửa ấy là thành cũ của Gia Định. Ông Ollivier là người Lang Sa đã xây thành ấy còn cho tới đời Minh Mạng, Ngụy Khôi choán lấy làm giặc, vây ba năm mới hạ được mà Mih Mạng dạy phá đi mà xây thành mới là thành Pha Lang Sa đã lấy và đốt đi.
[3] Xóm Vườn Mít là xóm làm bột ở thân ngoài Chợ Đũi: vườn mít là chỗ trường điếm, khi trước ở trong thành.
[4] Làng Tân Khai là tại Chợ Sỏi. Mỹ Hội ở trên Chợ Sỏi chạy lên cho tới kinh Cây Cám.
[5] Nam thanh nữ tú (gái lịch trai xinh) gái đeo vàng trai đi giày đi dép.
[6] Chợ Điều Khiển ở thôn trong Chợ Đũi đường vô Chợ Lớn, nguyên thuở trước có quan điều khiển ở đó. Cầu Khâm Sai tại Chợ Lớn bây giờ đường Gò Công nguyên ông khâm sai làm nên kêu tên như vậy.
[7] Chợ Da Còm đường Chợ Lớn ra Bến Thành, chợ ở ngoài chợ Đũi. Lấy ý trong tên cây da còm mà thêm nỡ để ông già gùi đội. Vì hễ nhà nước thái bình thì không thấy “lão giả bất phụ đai ư đạo lộ” (lời thầy Mạnh ông già không gùi đội nơi đường sá).
[8] Cầu Khắc này là cầu Bà Châu. Còn một cái cầu Khắc khác ở ngoài Chợ Kho đi lên Nước Nhỉ nữa. Lấy ý khắc đi cho có chừng cho vững chơn, đối câu ông già rằng con trẻ đi cho khỏi trợt khỏi té.
[9] Đường Nước Nhỉ là khúc đường Chợ Lớn ra Bến Thành ở ngoài chùa Kim Chương mà trong Cây Da Thằng Mọi chỗ ấy cũng có kêu là cóm lá buôn.
[10] Quán nước lên là quán ở đường Lò Gốm xuống ruộng tức Ngã tư rạch Lào bâu giờ.
[11] Kho Cẩm Thảo là dãy nhà kho bây giờ ở làng Tân Triêm ( tại chỗ nhà thờ Chợ Kho).
[12] Chùa Kim Chương là chùa của vua đã có thuở vua Gia Long ở Gia Định ở ngoài miễu Hiển Trung tự mà trong Nước Nhỉ.
[13] Chính là trường chai mà đặt trường chai có ý đối với dám đá.
[14] Chợ Cây Vông ở phía cửa tả thành Gia Định thẳng vô Cầu Bông.
[15] Kinh Mới là kinh ruột ngựa đào thẳng qua rạch Cát. Chợ Hôm là chợ thuở xưa ở ngoài Cây me quán bánh nghệ (cây me mát) mà trong xóm Bột đường trên Chợ Lớn đi ra.
[16] Chùa Bà Chúa Thai Sanh tại Chợ Lớn, một bên chùa Ông Lớn có biển hiệu là Tam Dơn hội quán. Chỗ người ta hay cầu khẩn mà xin cho đờn bà sinh đẻ cho bằng yên.
[17] Chùa Bà Mã Hậu (Mã Châu) là chùa Quảng Đông ở tại Chợ Lớn đường Cây Mai. Chỗ người đi thuyền vượt biển hay tới mà xin đi cho bình yên, đi cho thuận buồm xuôi gió cho đi tới nơi về tới chốn bình an vô sự.
[18] Chợ Lò Rèn ở bên kia đầu cầu phố. Nhà Ban là lò rèn nghe tiếng búa đập sắt lạc chạc cả ngày.
[19] Xóm Lò Gốm ở tại làng Phú Lâm rạch thông ra Ngã Tư thông vô cầu Khâm Sai. Chỗ người ta làm lò gốm làm ngói gạch, xây vò cha565u lu mái. Làm như ông Bàn Cổ xây trời vậy.
[20] Chợ Sỏi là chợ ở ngoài vàm Bến Nghé tại làng Tân Khai sắp vô tới đường Trường Tiền, thuở xưa kia đông đảo nhà lớp trên lớp dưới mé sông chạy dài khít nhau.
[21] Lò vôi khúc sông Bến Nghé ngay lối rạch Ông Bé sắp vô trong Chợ Lớn.
[22] Gò Vấp là tên chợ Gò Vấp ở xã Hanh Thông. Vì đó có gò khi trước mọc cây vắp nhiều nên lấy nó đặt tên. Chùa Cây Mai ở thân trong Chợ Lớn tại đầu cầu Ông Tiều.
[23] Giếng Hàng Xáo là giếng ở dưới sông bên này Chợ Lớn bên kia thì xóm Than. Xóm Cối xay xưa kia ở một bên lối bên chùa Chợ Cây Da thằng mọi đi ra.
[24] Ghe các tỉnh mỗi tỉnh mũi ghe có sắc riêng tàu bè các nước Tây, Tàu, Nhựt Bổn, Xiêm, Cha-và, đều tới Gia Định buôn bán.
[25] Dãy Thầy bói là dãy nhà thầy bói ở bên đường lối chợ Da Còm đi vô chợ Đũi.
[26] Bọn quân phường là quân ăn mày nghề bị 9 quai hay ngồi dưới bón cây mát, nhịp sứa mà nói thơ cho người đi đường thấy mà cho tiền,
[27] Thuở ấy có ngoại quốc Ô-rô Chà-và tới Gia Định buôn bán người dị hình dị dạng cho nên con gái đi chợ bưng rổ thấy xa c chạy te te, bạn ghe chèo đi dưới sông ngừng chèo hất mặt đứng coi.

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu và chú thích (phẩn 3).

Tài liệu tham khảo:
-Bản đồ Sài Gòn do Trần Văn Học vẽ năm 1815.
-Bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Hồng Đức, tháng 7 năm 2007.
-Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, các phần: Trấn Phiên An, Thành Trì Chí và Sản Vật Chí (bản điện tử trên website Văn Hóa Học). -Thanh Nghị, Việt Nam tân từ điển. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1991.
-Nguyễn Đình Đầu, phần Địa lý-lịch sử in trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập 1. Trong bài viết gọi tắt là Địa chí tập 1). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
-Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
-Vương Hồng Sển, Sài Gòn tạp phín lù. Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 1998.
-Huỳnh Minh, Gia Định xưa. Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, tái bản năm 2006.
-Sơn Nam, Bến Nghé xưa. Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1981.
-Nguyễn Thị Thanh Xuân-Nguyễn Khuê-Trần Khuê, Sài Gòn-Gia Định qua thơ văn xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.