Hình ảnh

Hình ảnh

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2010

Cuộc nổi dậy của Lâm Sâm tại Trà Vinh năm 1841

Cuộc nổi dậy của Lâm Sâm tại Trà Vinh năm 1841

Cuộc nổi dậy của Lâm Sâm là một cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn thời vua Thiệu Trị xảy ra ở phủ Lạc Hóa (nay là tỉnh Trà Vinh, Việt Nam) do Lâm Sâm (hay Sa Sâm, không rõ năm sinh năm mất) [1] làm thủ lĩnh, khởi phát từ tháng 3 âm lịch đến tháng 10 âm lịch năm Tân Sửu (1841), thì bị đánh tan.

I. Nguyên nhân xa & gần:
Từ lâu, các vua chúa Việt Nam luôn lo lắng về các vùng có tộc người Khmer định cư tập trung và lâu đời ở Nam Bộ.
Bởi đây là vùng đất mới đối với người Việt, cho nên khi chúa Nguyễn Ánh còn ở đất Gia Định, đã cho phép người Khmer ở địa phương lập đồn điền, và mỗi năm chỉ phải nạp lúa thuế mà thôi.

Đến khi nối ngôi vua, năm 1835, vua Minh Mạng cũng đã cho tộc người này hưởng chế độ tự trị rộng rãi, với quan phủ và các quan lại khác coi việc nội an đều là người Khmer.

Tuy nhiên, trong sâu xa các nhà cầm quyền vẫn muốn người Khmer trên đất Nam Bộ qui thuận theo mình, vì lẽ đó, lệnh trên ban ra có khi thiếu nhất quán và không phù hợp, mà chính sách “nhứt thị đồng nhơn” là một ví dụ.

Hậu quả là, nhân cơ hội quan quân nhà Nguyễn ở Chân Lạp đang vấp phải sự chống đối mãnh mẽ của người bản xứ (vì đã đem nước họ sáp nhập vào Đại Nam), mà tộc người Khmer ở Nam Bộ đã lần lượt đứng lên (trong số đó có cuộc nổi dậy của Lâm Sâm), gây nhiều tang thương mất mát.

Nhìn lại vấn đề này, nhà văn Sơn Nam đã chỉ ra mấy nguyên nhân chủ yếu như sau:
Vua Minh Mạng mất, để lại gánh nặng ở phía biên giới Việt-Miên. Loạn lạc đã phát khởi ngay từ khi cuộc chinh phạt của tướng Trương Minh Giảng đang diễn ra tại phía Biển Hồ, tuy rằng về hình thức là dẹp xong nhưng mầm mống còn đó. Người Miên cư ngụ trên lãnh thổ Việt Nam dường như sẵn sàng hưởng ứng, chống đối quan lại địa phương khi ở Cao Miên phong trào lên cao. Quân Xiêm lại khéo phao tin tuyên truyền. Người Cao Miên lúc bấy giờ ở Nam Kỳ lại bực dọc với chính sách “nhứt thị đồng nhơn” của vua Minh Mạng, bắt buộc họ phải lấy tên, lấy họ như người Việt để đồng hóa. Lại còn chủ trương cải cách tổ chức nông thôn cổ truyền của sóc Miên khiến họ mất quyền tự trị [2].

Còn Nguyễn Phan Quang, thì nhấn mạnh đến tệ tham lam của quan lại và địa chủ, giáo sư viết:
Do bất bình với chính sách “đồn điền” của triều Nguyễn, vì nó đã tạo ra cơ hội cho quan lại cùng địa chủ đổ xô đến Lạc Hóa, Ba Xuyên...chiếm đoạt ruộng đất. Bên cạnh đó, việc thay đổi phong tục tập quán địa phương và âm mưu gây chia rẽ giữa các thành phần dân tộc cũng đã góp phần làm nên nhiều cuộc nổi dậy [3].

II. Diễn biến:
Trước ngày 1 tháng 8 năm 1932, phủ Lạc Hóa gồm 2 huyện là Tuân Nghĩa và huyện Trà Vinh, trực thuộc trấn Vĩnh Long. Sau ngày này, vua Minh Mạng bỏ trấn và chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh trực thuộc triều đình Huế, và hai huyện trên vẫn thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long như cũ (cho đến khi thực dân Pháp chiếm lấy toàn cõi Nam Kỳ).

Theo Đại Nam nhất thống chí, thì lúc bấy giờ “trên hai bờ rạch Trà Vinh, người Kinh người Thổ ở lẫn lộn, thuyền buôn tụ họp, cũng là một nơi đô hội ở vùng biển” [4].

Rồi chính những nguyên nhân trên, mà nơi đô hội ấy không còn, bởi người dân Khmer (cùng một số người Việt và người Hoa[5]) ở phủ Lạc Hóa đã tin theo lời của Lâm Sâm để cầm vũ khí chống Nguyễn.

Theo Sơn Nam, thì thủ đoạn xách động (của Lâm Sâm) là dùng bùa ngãi, do các tên thầy bùa đưa ra rồi loan tin thất thiệt: "Ai không theo chúng sẽ bị Trời Phật hại, ai theo thì được cứu thoát, nên có lúc loạn quân lên đến bảy, tám ngàn. Ngoài Lâm Sum, còn có tên tổng Cộng (chắc là cai tổng tên Cộng) và một tên tự xưng là phò mã Đội. Còn võ khí là đao mác, chà gạc, phãng kéo cổ thẳng (sau trở thành cây mã tấu)...[6]

2.1 Đánh phá phủ Lạc Hóa, chiếm giữ huyện Trà Vinh:
Đầu tháng 3 âm lịch (1841), Lâm Sâm khởi binh. Đầu tiên, ông cầm quân tiến đánh phủ lỵ Lạc Hóa, binh lính chống đỡ không nổi, viên Tri phủ bỏ chạy, cấp báo về tỉnh. Bố chánh Trần Tuyên trực tiếp cầm quân ứng cứu, từ Vĩnh Long kéo đến đồn Nguyệt Lãng [7] vừa tiến vừa thăm dò, ngót 20 ngày mới tới sóc Lò Ngò[8], liền bị hơn ngàn quân nổi dậy kéo ra ngăn lại.

Bố Chánh Trần Tuyên bí mật thu quân về sóc Ô Đùng [9], thì bị nổi dậy phục kích ở vùng Trà Tử (nay gọi là Hiếu Tử), giết chết ông cùng viên Tri huyện Trà Vinh là Huỳnh Hữu Quang [10].

Nhân đà thắng lợi, Lâm Sâm thúc quân đến vây đánh tấn [11] Định An, chém chết viên Thủ ngự rồi nhanh chóng rút lui.

Tháng 4 âm lịch (1841), tức một tháng sau ngày khởi binh, Lâm Sum lại dẫn hơn 300 quân đến vây đánh đồn Nguyệt Lãng và nhiều đồn trại của quân triều đình trên bờ sông Trà Vinh. Đồng thời, cử người chỉ huy 2000 quân kéo lên chiếm giữ Giồng Sang [12], ngăn đường tiến của quân triều đình theo sông Cổ Chiên vào cứu viện. Kể từ đó, lực lượng nổi dậy kể như hoàn toàn làm chủ huyện lỵ Trà Vinh.

Nhận được tin cấp báo, vua Thiệu Trị liền triệu Tham tán thành Trấn Tây là Nguyễn Tiến Lâm từ Nam Vang về nước, để nắm quyền tổng chỉ huy cuộc trấn áp. Ngoài ra, nhà vua còn điều thêm hai tướng là Nguyễn Công Trứ (về nước cùng với Nguyễn Tiến Lâm), Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Bùi Công Huyên cùng tiếp tay. Khi tướng Trương Minh Giảng rút quân từ Chân Lạp về An Giang, lại có thêm 3.000 quân nữa[13], vậy mà theo Bản Triều Bạn Nghịch, thì: tuy phá tan được luôn, nhưng chỗ này tan rã thì chỗ kia qui tụ lại, cứ đánh phía Đông, giữ phía Tây không thể nào diệt hết được...[14]

Để đối phó lại đạo quân triều hùng mạnh ấy, Lâm Sâm cử thuộc cấp là Trần Hồng mang vài ngàn quân đến đánh phá vùng sóc Kỷ La [15] để bày thế trận nhằm phối hợp và chi viện lẫn nhau.

Sau trận này, liệu thế khó chống giữ, hai ông nhanh chóng rút hết quân về củng cố các căn cứ ở vùng Trà Cú, Xoài Xiêm thuộc huyện Tuân Nghĩa, sau khi chiếm giữ huyện lỵ Trà Vinh suốt trong 4 tháng (từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1841).

2.2 Trận Xoài Xiêm & Rum-Đuôn:
Cuối tháng 6, quân nổi dậy tựa vào chỗ hiểm để chống giữ, rồi lừa cho đại quân lọt vào trận địa phục kích, gây tổn thất nặng cho quân triều.

Đến tháng 8, Lâm Sâm cho di chuyển quân về lập căn cứ ở Chrui-Ton-Xa thuộc Ba Xao[16], gần sông lớn để có thể tiến thoái, lại có thể phối hợp với hai cuộc nổi dậy ở Ba Xuyên (Sóc Trăng) do thủ lĩnh Sơn Tốt và thủ lĩnh Trần Lâm đứng đầu.

Lại thấy khó có thể cầm cự lâu dài ở Ba Xao, Lâm Sâm lại quyết định rút lực lượng về Rum-Đuôn (tức Sâm Đô chép trong Đại Nam thực lục) cố giữ lũy dàn quân chống lại. Mấy đạo quân triều ồ ạt kéo vào vây chặt khu vực. Lâm Sâm bố trí trận mai phục bên hồ nước Trơpăn-Krôpư (bàu cá sấu), gây thêm một số tổn thất cho quân triều, giết chết một viên Phó quản cơ và một cai đội. Nhưng khi mấy đạo quân triều chia đánh mấy mặt thì lực lượng nổi dậy mất dần sức và nhanh chóng tan rã, căn cứ bị phá hủy. Lúc ấy là vào tháng 10 âm lịch năm Tân Sửu (1841).

III. Kết thúc:
Theo một nguồn tư liệu của địa phương, sau khi thất trận ở Rum-Đuôn, thủ lĩnh Lâm Sâm chạy sang cù lao Cồn Cộc ẩn náu một thời gian. Khi quân triều rút đi, ông trở về Trà Cú thì bị bắt cùng với người con trai tên là Lâm Tham khoảng đầu năm 1842 [17].

Rút lại, ở nửa đầu thế kỷ 19, cuộc nổi dậy ở Lạc Hóa là một trong vài cuộc nổi dậy lớn, tuy ngắn ngủi nhưng nó có tính chất điển hình. Và mặc dù quyết liệt, nhưng nó vẫn thất bại, vì đây cũng chỉ là một cuộc nổi dậy mang đậm tính địa phương riêng rẽ, giá trị thu hút của nó không lớn. Về phía nhà Nguyễn, nhờ có lực lượng quân sự đông đảo nên cuối cùng cũng đàn áp được, nhưng xét ra cách làm này vẫn không thể làm dịu bớt những mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội.

Cuộc nổi dậy ở Lạc Hóa, thực sự là lời cảnh báo của một bộ phận cư dân không nhỏ ở Nam Bộ đối với nền thống trị của triều Nguyễn, trong đó có chính sách đối với người dân tộc.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.

Chú thích:
[1] Lâm Sâm hay Sa Sâm, gọi theo cách của người Kinh. Người Khmer gọi ông là Xà Na Xom, hoặc Xà Xôm (tức viên tướng tên Xom). Còn trong tài liệu của Pháp thì ghi ông là Dô Sâm. Hiện nay, chưa rõ quê quán ông ở đâu, có thuyết nói Ba Xuyên (Sóc Trăng), có thuyết nói Tây Ninh.
[2] Nhà văn Sơn Nam giải thích thêm: Chánh sách của vua Minh Mạng đối với người Miên (luôn cả người Lào, người Mường...) là "nhứt thị đồng nhơn" (xem tất cả cùng là người), nghe qua thì như là dân chủ, nhưng thực chất là muốn bắt buộc các sắc dân phải theo luân lý, theo cách tổ chức thôn xóm, cúng tế của Việt Nam và Tàu, lại buộc họ phải lấy họ, như họ Sơn, Thạch, Kim, Kiên...(Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr. 85). Còn GS. Văn Tạo gọi đây là một “âm mưu đồng hóa" (xem chi tiết trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử: Chuyên đề về nhà Nguyễn, số 271, 1993, tr. 2-5). Trong Monographie de la province de Tra Vinh [Sài Gòn, 1905], một tác giả người Pháp cũng đã viết rằng: Người Việt và người Khmer sống thuận hòa với nhau trong một thời gian dài. Nhưng từ đời Minh Mạng (1820), triều Nguyễn ép người Khmer bỏ phong tục, tập quán của mình để theo luật An Nam, và đó là nguyên nhân chính của hàng loạt cuộc nổi dậy đẫm máu, làm rối loạn cả vùng. (Nguyễn Phan Quang dẫn lại, tr. 152).
[3] Việt Nam thế kỷ 19, tr. 152 và 156.
[4] Nguyễn Phan Quang dẫn lại, tr. 152.
[5] Sơn Nam cho biết trong đám loạn quân đầu thú, có cả người Việt và người Tàu. Phải chăng là những người trước kia theo Lê Văn Khôi nay trốn tránh? (Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr.90)
[6] Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr. 89.
[7] Vị trí đồn Nguyệt Lãng, nay thuộc xã Bình Phú huyện Càng Long tỉnh Trà Vinh. Hiện còn tên ấp Nguyệt Lãng nằm trên đường Vĩnh Long-Trà Vinh, cách thị xã Trà Vinh khoảng 13 km.
[8] Lò Ngò (Đại Nam thực lục chép là Lò Ngâu) phiên âm từ tiếng Khmer “Choòng Ngò” (choòng: ở cuối, ngò: cong), có nghĩa là giồng đất ở cuối con rạch có hình cong. Lò Ngò, nay thuộc xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
[9] Ô Đùng giáp với Lò Ngò. Tiếng Khmer là Phô Đôhm (Đại Nam thực lục chép là Nô Động). Hiện nay vẫn còn sóc Ô Đùng, nghĩa là giồng đất có nhiều cây dừa.
[10] Đại Nam thực lục (tập 23, tr. 201) chép: Ấn triện và bài ngà (của hai ông) đều bị bọn giặc cướp cả
[11] Tấn: từ dùng để gọi đồn lính canh phòng nơi cửa sông hay cửa biển.
[12] Giồng Sang là giồng đất ở Bãi Sang, nằm sát mé sông Cổ Chiên, trên đường đi qua xã Bình Phú, cách thị xã Trà Vinh khoảng 7 km.
[13] Các sách dùng để tham khảo đều không ghi con số quân Nguyễn tham dự cuộc trấn áp.
[14] Kiều Mậu Oánh, Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện. Bộ Quốc Gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cho dịch và ấn hành (Sài Gòn, 1963, tr. 85).
[15] Kỷ La tức Ỷ La chép trong Đại Nam thực lục, nay thuộc xã Vĩnh Lợi Thượng, cách thị xã Trà Vinh khoảng 9 km.
[16] Ba Xao, tức Bãi Sao chép theo Đại Nam thực lục. Hiện còn ấp Bãi Sao ở huyện Trà Cú (Trà Vinh).
[17] Chép theo Việt Nam thế kỷ 19 (tr. 155). Các sách dùng để tham khảo đều không cho biết sau khi bị bắt, số phận cha con Lâm Sâm như thế nào.

Sách tham khảo chính:
-Quốc sử quán (triều Nguyễn), Đại Nam thực lục (Tiền biên và Chính biên). Nxb Sử học và Nxb KHXH, Hà Nội, 1962-1972.
-Vương Hồng Sển, Tự vị tiếng nói Miền Nam. Nxb Trẻ TP. HCM, 1999.
-Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam. Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1994
-Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ 19. Nxb Tp. HCM, 2002.
-Nhiều tác giả, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I). Nxb Giáo dục, 2007.

Xem thêm (cùng một người soạn):
-Cuộc nổi dậy ở Ba Xuyên năm 1941
-Cuộc nổi dậy ở Thất Sơn
Cuộc nổi dậy chống Nguyễn ở Ba Xuyên năm 1841

Cuộc nổi dậy ở Ba Xuyên năm 1841, là một cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn thời vua Thiệu Trị, xảy ra trên địa bàn phủ Ba Xuyên lúc bấy giờ (nay là tỉnh Sóc Trăng, Việt Nam), do hai thủ lĩnh là Sơn Tốt và Trần Lâm cùng chỉ huy, khởi phát từ tháng 3 năm Tân Sửu (1841) đến khoảng đầu năm sau (1842) thì bị đánh tan.

I. Thông tin mở đầu:
1.1 Địa bàn cuộc nổi dậy:
Theo Đại Nam nhất thống chí, thì phủ Ba Xuyên, cách tỉnh thành An Giang 264 dặm về phía Đông Nam, nguyên là đất Ba Thắc, sau lập thành phủ An Biên. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), đổi tên là phủ Ba Xuyên.

Trong di cảo của học giả Trương Vĩnh Ký còn cho biết rằng: Sóc Trăng tức Srock Khleang, phiên theo cách gọi Khmer, và có nghĩa là kho báu, kho bạc.

Sóc Trăng thời Minh Mạng được gọi là Nguyệt Giang, do ép chữ “Sóc” thành “sông”, “trăng” thành “nguyệt”; nhưng sau đó lại đổi tên thành Ba Xuyên khi thành lập phủ vào năm 1835. Khi ấy, phủ Ba Xuyên gồm 3 tổng (sau đổi thành huyện): Vĩnh Định, Phong Nhiêu và Phong Thạnh. Năm 1889 Pháp nâng phủ thành tỉnh lấy tên cũ là Sóc Trăng.

1.2 Thủ lĩnh cuộc nổi dậy:
-Sơn Tốt (?-1841), người Khmer, nguyên là một thổ mục ở phủ Ba Xuyên thời Nguyễn, từng giữ chức Quản cơ trong quân đội triều đình. Theo Ban dân tộc ở hai tỉnh là Sóc Trăng và Kiên Giang, thì Sơn Tốt rất có thể là Sna-Tea (Sơn Nam phiên âm là Xa-ne Tia), một nhân vật được chép trong tài liệu của nhà chùa và được nhắc đến trong các truyền thuyết ở địa phương.
-Trần Lâm (Srok Lim?, sinh:?-mất: 1842), người Khmer, nguyên là Tri phủ Ba Xuyên.
Hiện nay chưa có thông tin chi tiết về hai ông.

II. Nguyên nhân:
Bất bình với chính sách “đồn điền” của triều Nguyễn, vì nó đã tạo ra cơ hội cho quan lại cùng địa chủ đổ xô đến Ba Xuyên, Lạc Hóa...chiếm đoạt ruộng đất [1]. Bên cạnh đó, chủ trương nhằm thay đổi phong tục tập quán cùng việc cải cách tổ chức tổ chức nông thôn của tộc người Khmer ở Nam Bộ, khiến họ mất quyền tự trị.
Đề cập đến vấn đề này, nhà văn Sơn Nam, viết:

Chánh sách của vua Minh Mạng đối với người Miên (luôn cả người Lào, người Mường...) là "nhứt thị đồng nhơn" (xem tất cả cùng là người), nghe qua thì như là dân chủ, nhưng thực chất là muốn bắt buộc các sắc dân phải theo luân lý, theo cách tổ chức thôn xóm, cúng tế của Việt Nam và Tàu, lại buộc họ phải lấy họ, như họ Sơn, Thạch, Kim, Kiên...[2]

Bực dọc âm ỉ cho đến đầu năm 1841, thì tộc người Khmer ở nhiều nơi lần lượt nổi lên chống Nguyễn (trong số đó có cuộc nổi dậy ở Ba Xuyên), bởi lúc bấy giờ vua Thiệu Trị vừa nối ngôi, loạn lạc trong nước chưa yên, còn ở Trấn Tây thành (Chân Lạp) thì quan quân nhà Nguyễn đang bị người bản xứ chống đối mãnh mẽ...

III. Diễn biến:
Tháng 3 năm Tân Sửu (1841), Sơn Tốt đem lực lượng của mình đã chiêu tập được hiệp với lực lượng của thủ lĩnh Trần Lâm, bởi cả hai có chung một địa bàn (Ba Xuyên) và chung một mục đích chống Nguyễn. Ngoài ra, Sơn Tốt còn cho liên kết với cuộc nổi dậy của Lâm Sâm ở phủ Lạc Hóa (Trà Vinh) nhằm hỗ trợ và chia sức quân triều.

3.1 Trận phủ thành Ba Xuyên:
Khởi đầu, Sơn Tốt và Trần Lâm chia lực lượng ra làm hai, một cánh bao vây phủ thành Ba Xuyên [3], một cánh kéo lên phía Bắc đánh phá huyện thành Vĩnh Định (ở xã Tân An, thành phố Cần Thơ hiện nay).

Hốt hoảng, viên Tri huyện Vĩnh Định trốn chạy, đồng thời cấp báo lên cấp trên ở tỉnh Vĩnh Long. Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long & Định Tường) Dương Văn Phong thân đem quân đến cứu, chiếm lại được huyện lỵ Vĩnh Định, rồi tiến luôn đến Bãi Xàu, để giải vây cho phủ thành Ba Xuyên. Ở phía ngoài phủ thành Ba Xuyên, một trận đánh quyết liệt đã diễn ra, làm thủ lĩnh Sơn Tốt chết ngay tại trận.

Tuy giải phóng được phủ thành Ba Xuyên, nhưng lực lượng của Trần Lâm vẫn còn đóng giữ khu vực chợ Bãi Xàu. Để đánh bật đối phương ra khỏi nơi ấy, Tổng đốc Phong cho quân theo đường thủy và đường bộ đánh thẳng vào chợ Bãi Xàu, phá vỡ được thế chống cự của quân nổi dậy, thu hết các thứ tích trữ, đốt hết các đồn bảo, bắt được nhiều thuyền bè và khí giới.

Bị đánh thua, Trần Lâm cho phân tán quân ra rút khỏi chợ Bãi Xàu, rồi chia nhau đóng ở các xứ Mã Tộc, Sóc Trăng (tên khu vực trùng tên tỉnh) và Trà Tâm.

Nhận được tin đội quân của Trần Tâm và của Lâm Sâm vẫn đang khẩn trương đào hào đắp lũy, tính kế kháng cự lâu dài với quân triều đình, vua Thiệu Trị vội vàng cho triệu Tham tán thành Trấn Tây là Nguyễn Tiến Lâm (Sơn Nam ghi là Nguyễn Tấn Lâm) từ Nam Vang về nước, để nắm quyền tổng chỉ huy cuộc trấn áp. Ngoài ra, nhà vua còn điều thêm hai tướng nữa là Nguyễn Công Trứ (về nước cùng với Nguyễn Tiến Lâm), Nguyễn Tri Phương cùng tiếp tay. Đến khi tướng Trương Minh Giảng rút quân từ Chân Lạp về An Giang, lại có thêm 3.000 quân nữa cùng tham gia cuộc trấn áp.

3.2 Trận Mã Tộc:
Khoảng cuối mùa xuân năm 1841, Trần Lâm vẫn còn trong tay hơn 6000 quân. Ngán ngại trước sức mạnh này, Tổng đốc Phong viện cớ ốm (đau chân), để giao quyền chỉ huy lại cho Lãnh binh Nguyễn Duy Tráng.

Lãnh binh Tráng bèn dẫn ba đạo quân tiến đến xứ Mã Tộc. Sách Đại Nam thực lục kể lại đại để như sau:

Quân nổi dậy giả vờ tổ chức tiệc rượu, chờ cho quân triều tới nơi thì bỏ chạy tán loạn. Quân triều tưởng rằng đối phương bị đánh bất ngờ nên chạy trốn, bèn tranh nhau công vào tiệc rượu, ngả cờ, buông khí giới ngồi xuống ăn uống. Tức thì quân Trần Lâm quay trở lại đánh úp, làm tan rã đạo hậu quân. Hai đạo trung và tiền nghe tin, liền hốt hoảng vất cả khí giới mà chạy.
Thời may, cánh quân cứu viện do Phó lãnh binh Mai Văn Đổng đến kịp, đuổi được quân nổi dậy ra khỏi đồn, nhưng viên lãnh binh này không dám xua quân truy đuổi vì lý do "đường đi có quá nhiều sông ngòi chằng chịt, không tiện đuổi theo đến cùng". Sau trận này, phía quân triều chết hai Phó vệ úy, một Phó quản cơ và 5 Phó cơ (trong số đó có một Phó vệ úy Cẩm y vệ và một viên Phó cơ đều bị giết chết ngay tại bàn tiệc). Về vũ khí, quân triều mất 14 súng lớn cùng rất nhiều binh khí và đạn dược
[4].

3.3 Trận Sóc Trăng & Nhu Gia:
Tuy gây nhiều thiệt hại cho quân triều, nhưng quân nổi dậy phải bỏ căn cứ Mã Tộc mà chạy về Sóc Trăng và Nhu Gia, là hai nơi hiểm yếu, làm thêm rào chắn, đấp thêm lũy đất và cảng ngăn sông.

Nghe do thám báo về đường bộ và đường thủy dẫn đến hai căn cứ đều bị nghẽn, Tổng đốc Dương Văn Phong càng thêm lo, bèn lấy cớ chân chưa được khỏe, để sai các thuộc cấp của mình đem quân thủy bộ tiến đánh.

Không đợi quân triều tới nơi, ở Sóc Trăng, thủ lĩnh Trần Sâm cứ một toán quân nhỏ ra kiêu khích rồi giả vờ bỏ chạy. Sợ mắc mưu như ở trận Mã Tộc, quan quân lụt tục kéo về, nhưng đến nửa đường thì bị quân nổi dậy mai phục ở hai bên bờ sông xông ra đánh thọc sườn, phải tháo chạy hết về phủ thành Ba Xuyên.

Tương tự, ở Nhu Gia quân triều cũng bị phục binh mà tan tan cả. Quân nổi dậy đã lấy nhiều giáo nhọn phóng bừa ra làm cho Phó lãnh binh Mai Văn Đổng, hai Phó vệ úy và hai Phó cơ chết ngay tại trận, binh lính ngã xuống sông chết đuối cũng nhiều, lại bị mất khẩu súng quá sơn lớn bằng đồng và khí giới các hạng .

3.4 Trận Trà Tâm:
Cũng thời gian này, một cánh quân do Hòe Ất (vốn là thuộc cấp của Sơn Tốt) chỉ huy từ vùng sông Ô Môn (nay là quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ) kéo về đóng ở Trà Tâm [5].

Hy vọng không đánh mà có thể thắng được, tướng Nguyễn Tri Phương bèn cho người đi chiêu hàng. Nhưng chờ mãi không thấy quân nổi dậy buông khí giới, mà chỉ thấy đối phương tiếp tục bố trí trận địa phòng ngự, tướng Phương bèn chia quân ra làm ba mũi cùng tiến về Trà Tâm.

Trước lực lượng đông đảo và hùng hổ này, Hòa Ất không cho quân ra đối mặt, mà chỉ cho mai phục, rồi đánh tạt ngang sườn đạo hậu quân, giết chết tại trận một viên Phó vệ úy, một viên Phó cơ. Còn súng lớn súng nhỏ, khí giới và nghi trượng bị bỏ mất khá nhiều.

3.5 Kết thúc:
Khoảng cuối tháng 9 âm lịch năm Tân Sửu (1841), thủ lĩnh Trần Sâm lại tập hợp được ngót 5000 quân. Cùng thời gian này, tình hình trên đất Chân Lạp rất tồi tệ, buộc vua Thiệu Trị phải ra lệnh cho tướng Trương Minh Giảng lặng lẽ rút quân về nước. Nhưng khi đến nơi thì viên tướng này mất vì bệnh (nhưng lý do chính là vì buồn giận triều đình. [lời của Sơn Nam]). Không bỏ lỡ cơ hội, quân Xiêm mở ngay cuộc xâm lăng vào lãnh thổ nước Việt.

Vừa lo thù trong, giặc ngoài, vừa nóng lòng vì không phá tan được quân nổi dậy, tướng tổng chỉ huy cuộc đàn áp là Tham tán Nguyễn Tiến Lâm, gấp rút dốc hết lực lượng, chia làm ba mũi, tiến đến giồng Cổ Lũy (có lẽ ở Mã Tộc) rồi cùng đánh khép lại.

Tháng 10, quân triều đánh tan được lực lượng của Lâm Sâm ở Rum-Đuôn, làm cho lực lượng của Trần Lâm bị cô lập, bị đàn áp dữ dội, và rồi suy yếu nhanh chóng. Sang đầu năm 1842, trong một trận đánh ở gần Sóc trăng, thủ lĩnh Trần Lâm bị giết tại mặt trận. Từ lúc đó, cuộc nổi dậy ở Ba Xuyên kể như kết thúc.

Nhìn chung, giống như các nổi dậy ở Lạc Hóa (Trà Vinh), Hà Tiên và vùng Thất Sơn (An Giang), cuộc nổi dậy ở Ba Xuyên năm 1841 vẫn có một kết cục thảm hại, vì quân đội lúc này hãy còn mạnh và vì đây cũng chỉ là một cuộc nổi dậy mang đậm tính địa phương riêng rẽ, giá trị thu hút của nó cũng không lớn. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là, người đứng đầu cuộc nổi dậy vốn là quan chức ở địa phương, và thuộc tộc người Khmer.

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn

Xem thêm (cùng một người soạn):
-Cuộc nổi dậy Lâm Sâm
-Cuộc nổi dậy ở Thất Sơn

Chú thích:

[1] Tệ nạn tham nhũng lúc bấy giờ là mầm mống của nhiều cuộc nổi dậy. Nhà sử học Phạm Văn Sơn, viết: không thể không quy trách nhiệm cho Ngài (Minh Mạng) về các vụ loạn ly đã xảy ra ở Bắc Hà, Nam Hà và Chân Lạp do quan lại tham nhũng gây nên, đáng lẽ ở những miền xa xôi này nhà vua phải lựa đặt những cán bộ ưu tú, biết lấy ân làm uy, khéo léo vỗ về dân chúng, bởi từ lâu họ đã thiếu cảm tình với tân triều (Việt sử toàn thư, bản điện tử, tr. 425).
[2] Lịch sử khẩn hoang miền Nam (tr. 85). GS. Văn Tạo gọi đây là “âm mưu đồng hóa (Xem chi tiết trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử: Chuyên đề về nhà Nguyễn, số 271, 1993, tr. 2-5).
[3] Trước đây, các nhà sử học (trong số đó có GS, Quang) đều cho rằng vào năm 1835, phủ lỵ Ba Xuyên đặt tại thôn Hòa Mỹ, tổng Phong Nhiêu. Thành đắp bằng đất từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), ở phía tây chợ Hòa Mỹ, tức chợ Bãi Xàu. Nhưng trong một bài viết vào năm 1972, tác giả Vũ Văn Tỉnh lại cho rằng phủ lỵ đặt tại Vàm Ba, tức nơi cửa sông Ba Xuyên, còn gọi là Vàm Tấn (Đại Ngãi). Xem “Những thay đổi địa lý hành chánh các tỉnh phía Nam trong thời kỳ Pháp thuộc”, in trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 146 (trang 28-40). Tuy nhiên, từ năm 1972 cho đến nay, vẫn chưa thấy ngành chức năng có ý kiến, nên ở đây vẫn ghi theo GS. Quang, tức công nhận phủ lỵ Ba Xuyên đặt tại thôn Hòa Mỹ.
[4] Lược theo Đại Nam thực lục, tập 23 (tr. 157) và tập 24 (tr. 148)
[5] Nhà văn Sơn Nam ghi chú: Trà Tâm, phải chăng vùng vùng Phú Tâm, nằm trên đường Sóc Trăng đi Bạc Liêu, hoặc Tà Tâm tức sân bay Sóc Trăng ngày nay (trước năm 1975). Sách ghi ở mục tham khảo, tr. 90.

Sách tham khảo:
-Quốc sử quán (triều Nguyễn), Đại Nam thực lục (Tiền biên và Chính biên). Nxb Sử học và Nxb KHXH, Hà Nội, 1962-1972.
-Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam . Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
-Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ 19 (1802-1884). Nxb Tp. HCM, 2002.
-Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam (1427-1858), quyển 2, tập 2. Nxb Giáo dục, 1977.
-Nhiều người soạn, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I). Nxb Giáo dục, 2007.

Thứ Hai, 1 tháng 2, 2010

Danh tướng Ngô Tam Quế và mỹ nhân Trần Viên Viên


Danh tướng Ngô Tam Quế và mỹ nhân Trần Viên Viên

I. Ngô Tam Quế (吳三桂), sinh năm 1612, là Tổng binh cuối triều Minh, sau đầu hàng và trở thành cộng sự của nhà Thanh.

Trước đây, Ngô Tam Quế từng dưới quyền của Viên Sùng Hoán (1584-1630), sau khi viên tướng này bị vua nhà Minh là Sùng Trinh giết chết, Ngô Tam Quế dần dần được trao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc).

Khoảng thời gian này, các nhóm khởi nghĩa chống lại nhà Minh đã dần lớn mạnh, trong số ấy có lực lượng của Lý Tự Thành. Sau những thắng lợi liên tiếp, Lý Tự Thành lên ngôi Hoàng đế ởTây An (Thiểm Tây), và rồi đánh chiếm luôn Bắc Kinh vào ngày 26 tháng 5 năm 1644.

Trong khi đó, viên Tổng binh nhà Minh là Ngô Tam Quế, chỉ huy 10 vạn quân đang đóng ở Sơn Hải Quan. Nhiệm vụ của lực lượng này vốn là để phòng ngự sự xâm nhập của quân Thanh, nhưng khi nghe Bắc Kinh bị huy hiếp, Ngô Tam Quế liền dẫn binh về cứu. Dọc đường, nghe tin kinh đô đã thất thủ, vua Minh (Sùng Trinh Hoàng đế) đã chết, lại nghe Lý Tự Thành dụ dỗ, nên Ngô Tam Quế đã định hàng. Nhưng khi hay ái thiếp của mình là Trần Viên Viên bị Tự Thành chiếm đoạt, họ Ngô liền nổi giận, đến xin hợp với quân nhà Thanh do Đa Nhĩ Cổn chỉ huy.

Lý Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế, nhưng bị liên quân Ngô Tam Quế và Mãn Thanh đánh bại, do đó phải rút khỏi Bắc Kinh sau 43 ngày đêm làm chủ chốn đế đô này. Kể từ đó, nhà Thanh chính thức làm chủ được Trung Quốc.

Khi nhà Minh ở Bắc Kinh đã bị lật đổ, các quan lại ở Nam Kinh bèn tôn một người trong hoàng tộc là Phúc Vương lên làm vua, lập nên nhà Nam Minh... Tuy nhiên, trước sự tấn công mạnh mẽ của quân Thanh, vị vua cuối cùng của Nam Minh là Quế Vương (Chu Do Lang) phải chạy sang Miến Điện. Ngô Tam Quế đem quân truy kích buộc vua Miến Điện phải giao Quế Vương, rồi đưa về Côn Minh (thủ phủ của tỉnh Vân Nam) treo cổ, triều Nam Minh diệt vong (1661).

Khi mới thành lập, triều Thanh đã phong vương cho một số tướng lĩnh Hán tộc có công, trong số đó có Thượng Khả Hỉ (được phong là Bình Nam vương, trấn thủ Quảng Đông), Cánh Kế Mậu (được phong là Tĩnh Nam vương, trấn thủ Phúc Kiến), Ngô Tam Quế (được phong là Bình Tây vương, trấn thủ Vân Nam)...
Ba lãnh địa đó, gọi chung là “Tam phiên”, và trong ba phiên ấy, mạnh nhất là thế lực của Ngô Tam Quế. Sau xét thấy, sự tồn tại của những lãnh địa này, không có lợi cho nền thống trị của nhà Thanh, vì vậy năm 1673, vua Khang Hi đã ra lệnh bãi bỏ các phiên.
Bị mất quyền lợi, ngay năm ấy, Bình Tây vương Ngô Tam Quế nổi dậy chống lại nhà Thanh và hô hào hai phiên kia cùng phối hợp. Phong trào này buổi đầu đã lôi cuốn được sự hưởng ứng của nhiều địa phương trong cả nước, như Trịnh Kinh từ Đài Loan cũng đem quân qua tấn công vùng ven biển hai tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến. Tuy nhiên, vì các lực lượng chống Thanh không có hành động thống nhất, nên ít năm sau thì bị dẹp tan. Năm 1676, hai phiên họ Cánh và họ Thượng đã đầu hàng.

Trong tình thế rất khó khăn, năm 1678, Ngô Tam Quế vẫn xưng làm Hoàng đế, nhưng chỉ được 5 tháng thì chết. Hôm đó, là ngày 2 tháng 10 năm 1678, thọ 66 tuổi.

Cháu của ông là Ngô Thế Phiên nối ngôi, nhưng thế lực đã rất suy yếu. Năm 1681, quân nhà Thanh tấn công và chiếm được Vân Nam, Thế Phiên phải tự tử. Như vậy, cuộc nổi dậy của “Tam phiên” đến đây thì bị dập tắt.

Trích một đoạn trong sách Sử Trung Quốc của học giả Nguyễn Hiến Lê, để thay lời nhận xét:

"Ngô Tam Quế được lịnh về cứu kinh đô từ mười ngày trước, vẫn chùng chình, tiến binh rất chậm, có lẽ vì còn tính xem có nên nhận đề nghị chia chác sau đó của Lý Tự Thành không. Khi Tư Tôn (tức Sùng Trinh Hoàng đế) tuẫn quốc, thì Quế mới tiến được có nữa đường tới Bắc Kinh. Hay tin, hắn quay trở về liền để chờ xem tình thế ra sao.
Lý Tự Thành đã thành công một cách dễ dàng...Duy có Ngô Tam Quế là có thể gây rối cho ông. Ông nhờ cha của Quế (lúc đó đã theo ông) làm trung gian để điều đình với Quế. Nhưng Quế vẫn không quyết định gì cả, có lẽ muốn đợi Lý Tự Thành trả cho mình một ái thiếp bị một tướng của Tự Thành bắt. Đồng thời Quế cũng thương thuyết với quân Thanh, nhờ quân Thanh giúp khi cần. Tự Thành hay tin đó tặng Quế 40.000 lạng (bạc?), Quế vẫn làm thinh.
Bực mình, Tự Thành phái hai tướng đem 20.000 quân tấn công Quế. Nhưng đáng lẽ phải cấp tốc đánh Tam Quế trước khi quân Thanh can thiệp, thì họ lại kéo dài ra. Tự Thành phải đích thân đem 200.000 quân đánh Quế ở gần Sơn Hải Quan, khi vây Quế ba mặt rồi, quân Quế sắp bị tiêu diệt thì quân Thanh tới cứu Quế. Tự Thành thua, rút lui, đề nghị chia giang sơn với Quế; Quế không chịu, Tự Thành giết cha Quế rồi vội vàng về Bắc Kinh (vì quân địch theo bén gót) vơ vét vàng bạc, châu báu chất lên xe, đưa về phía Tây, đốt cung điện rồi cùng với quân đội rút lui...
Quế hy vọng đuổi đưọc Tự Thành rồi, nhường cho nhà Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn Châu. Không dè viên phụ chính (Đa Nhĩ Cổn), chú vua Thanh bảo chưa lập được trật tự nên không về, lại sai Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành tới Thiểm Tây. Trong khi đó, vua Thanh mới 7 tuổi được chú (tức viên phụ chính) đưa vào Bắc Kinh, đặt lên ngai vàng.
Quế hay tin như người mất hồn, suốt ngày đóng cửa không tiếp ai, rất rầu rĩ. Hắn tiếc vì mất ái thiếp, lại mất ngôi vua hay chức Tể tướng. Hắn ân hận vì để cho cha bị giết và mang tội phản quốc"...(Sử Trung Quốc, tập 2, tr.163-164).

II. Trần Viên Viên (陳園園, gọi tắt là Viên Viên, không rõ năm sinh năm mất), là một mỹ nhân thời Minh mạt-Thanh sơ trong lịch sử Trung Quốc.

Trần Viên Viên (gọi tắt là Viên Viên), xuất thân từ một gia đình lao động nghèo, đến Tô Châu làm kỹ nữ, và tài năng cùng nhan sắc của nàng đã được rất nhiều người hâm mộ.

Khi ấy, vua Minh là Sùng Trinh đang sủng ái Điền Quý phi, làm cho Chu hoàng hậu rất ghen tức. Biết chuyện, cha của Chu hoàng hậu đến kỹ viện bỏ tiền ra mua Viên Viên, để đưa vào cung phục vụ nhà vua. Kề cận được Viên Viên, vua Sùng Trinh cứ ở mãi trong cung không muốn ra thiết triều.

Khoảng thời gian này, các nhóm khởi nghĩa chống lại nhà Minh đã dần lớn mạnh, trong số ấy có lực lượng của Lý Tự Thành. Sau khi hay tin quân nổi dậy đánh lấy ba thành trì lớn, cộng thêm lời can gián của các quan, vua Sùng Trinh mới cho nàng ra ở trong phủ Chu quốc trượng.

Trong một bữa tiệc tại phủ, Chu quốc trượng cho Viên Viên ra múa hát, và nhan sắc cùng tài năng của nàng đã lọt vào mắt xanh của Ngô Tam Quế. Và khi viên võ quan này được cử ra trấn thủ Sơn Hải Quan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), để ngăn chặn quân Mãn Châu, thì vua Sùng Trinh đã ban Viên Viên cho ông [1]. Sau đó, Viên Viên cũng được họ Ngô sủng ái, tuy nhiên, nàng không theo ra trận, mà vẫn ở lại Bắc Kinh.

Ngày 26 tháng 5 năm 1644, lực lượng của Lý Tự Thành (tự xưng là Sấm vương) vào chiếm lấy Bắc Kinh, lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Đại Thuận. Vua Sùng Trinh bỏ chạy rồi tự vẫn ở Môi Sơn. Quân nổi dậy bắt được Viên Viên, đem nạp cho Lý Tự Thành.
Tiếp theo, Ngô Tam Quế đánh bại Lý Tự Thành và diệt luôn nhà Nam Minh ở Nam Kinh, nên được nhà Thanh phong là Tây Bình vương, cho trấn thủ ở Vân Nam.

Theo Vũ Đức Sao Biển, thì sau khi Lý Tự Thành bị đánh đuổi, Ngô Tam Quế đã xum họp với Viên Viên. Nhưng khi nghe tin sắp được phong vương, Ngô Tam Quế không dám đưa tên Viên Viên ra trình với Thuận Trị Hoàng đế vì nguồn gốc xuất thân của nàng. Họ Ngô phải cưới vợ khác và bố trí Viên Viên ra tu tại một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô thành Côn Minh (tức thủ phủ của Vân Nam).

Trích lời bàn của Vũ Đức Sao Biển:
"Cuộc đời của Trần Viên Viên đúng là bi kịch của nhan sắc: hết làm trò chơi cho các danh sĩ và nhà hào phú đất Tô Châu; nàng lần lượt trở thành trò chơi cho Sùng Trinh Hoàng đế, Sấm vương Lý Tự Thành rồi Bình Tây vương Ngô Tam Quế. Cuộc chiến giữa Ngô Tam Quế và Lý Tự Thành tại Nhất Phiến Thạch làm chết cả vạn người, bị dư luận lịch sử Trung Quốc trút lên đầu của Trần Viên Viên. Chỉ có một người thông cảm với kiếp hồng nhan, đã làm một bài thơ để giãi bày hộ Trần Viên Viên. Đó là danh sĩ Ngô Vĩ Nghiệp [2] với "Viên Viên khúc"...
Và với một bút pháp kể chuyện có xen mô tả khá tinh tế, nhà văn Kim Dung đã xây dựng một Trần Viên Viên trở thành đệ nhất đại mỹ nhân trong hàng ngàn nhân vật nữ trong tiểu thuyết của mình. Những Tiểu Long Nữ, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Mẫn, Tiểu Siêu, Hân Tố Tố, Viên Tử Y, Vương Ngữ Yên... cũng là những đại mỹ nhân nhưng là đại mỹ nhân ở tuổi 18-20. Họ không thể sánh bằng Trần Viên Viên ở tuổi 40 tươi đẹp, chân tình, trí tuệ, tài hoa và đau khổ! (trích trong "Kim Dung giữa đời tôi", tập 2, chương 7, tr. 70)

Trích "Viên Viên khúc" (bản dịch):
...Mệt vì tăm tiếng lẫy lừng,
Rước mời, biếu xén tưng bừng đua nhau
Một hộc châu, vạn hộc sầu,
Quan sơn phiêu bạt dãi dầu mình ve.
Cuồng phong hoa rụng thảm thê,
Vô biên xuân sắc biết về nơi nao.
...
Đường thơm nay cảnh đìu hiu,
Chim kêu khắc khoải, sân rêu xanh rì.
Dời cung, thay áo sầu bi,
Lời ca điệu múa nhớ về Lương Châu.
Khúc Ngô chớ hát thêm sầu,
Ngày đêm sông Hán dạt dào về Đông. [3]

Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.

Chú thích:
1.Có nguồn ghi hơi khác: Viên Viên được vào hoàng cung để hầu hạ vua Sùng Trinh, nhưng chỉ được 3 ngày, bà bị Chu hoàng hậu đưa ra khỏi cung. Sau được Chu quốc trượng (cha của Chu hoàng hậu) gã cho Ngô Tam Quế.
2. Ngô Vĩ Nghiệp (吳偉業, 1609-1672), tự là Tuấn Ông, hiệu là Mai Thôn, quê ở Thái Thương (nay thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc). Ông đỗ Tiến sĩ năm Sùng Trinh thứ tư (1631), ra làm quan với nhà Minh một thời gian. Khi quân Thanh chiếm Trung Quốc, ông về ẩn cư ở quê nhà. Năm Thuận Trị thứ 10 (1653), ông buộc phải tuân chiếu chỉ ra làm quan với nhà Thanh, giữ chức "Quốc tử Tế tửu" (tức Hiệu Trưởng trường Quốc Tử Giám); ba năm sau thì từ quan. Ngô Vĩ Nghiệp là nhà thơ nổi tiếng, đồng thời cũng giỏi cả từ, khúc và hội họa.
3. Xem toàn văn Viên Viên khúc ở đây. [http://www.hoasontrang.us/phorum/showthread.php?t=3337]

Tài liệu tham khảo:
-Phan Khoang, Trung Quốc sử lược. Văn sử địa xuất bản tại Sài Gòn năm 1970.
-Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (tập 2). Nxb Văn hóa, 1997.
-Nhiều người soạn, Lịch sử thế giới trung đại. Nxb Giáo dục, 2003.
-Vũ Đức Sao Biển, Kim Dung giữa đời tôi (tập 2, chương 7). Nxb Đồng Nai, 1997.

Ảnh trên: Tượng Viên Viên tại Côn Minh

Án văn tự đời Thanh

Án văn tự đời Thanh

Đời nhà Thanh (1644-1911), đã xảy ra hai vụ án lớn có liên quan đến văn tự, làm liên lụy nhiều người, đó là vụ án Minh Sử và vụ án Điềm kiềm ký văn.

I. Vụ án Minh Sử:
Vụ án Minh Sử hay Vụ án văn tự đầu đời Thanh, xảy ra ở khu vực Hàng Châu, Chiết Giang, kéo dài từ năm đầu năm 1662 cho đến năm 1663, dưới thời vua Khang Hi, nhà Thanh ởTrung Quốc.

Thời đầu nhà Thanh, để duy trì được quyền lực, nhà cầm quyền đã áp dụng một chính sách độc tài, nặng về trấn áp và trừng trị. Hai biến động quan trọng nhất mang tính chất răn đe, đó là là vụ Thuế ở Giang Nam (1661) và vụ án Minh Sử.
GS. Phan Khoang, viết:
Nhà Thanh biết rằng người Trung Quốc ắt phản kháng họ, mà nếu có phản kháng thì do các phần tử trí thức lãnh đạo. Vì vậy đối với giới này, họ dùng nhiều thủ đoạn mà một trong số đó là việc mở rộng nhà lao mà đời gọi là ngục văn tự để trấn áp sĩ khí. Có thể nói rằng bấy giờ người Trung Quốc không có tự do ngôn luận...[1]
1.1 Diễn biến:
Tuy lời kể trong mỗi sách có khác nhau một vài chi tiết, nhưng đại để sự việc xảy ra như sau:
Vào cuối đời Minh, Chu Quốc Trinh (1557-1632), đỗ Tiến sĩ năm 1589, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lễ kiêm Nội các đại học sĩ rồi thăng Tướng quốc (Thủ Phụ), nhưng vì không theo phe đảng của hoạn quan Ngụy Trung Hiền nên từ quan về ở Nam Tầm tỉnh Chiết Giang.
Họ Chu đã dày công soạn thảo một bộ sử về thời Minh trong đó có nhiều phần khác nhau: Hoàng Minh Đại Sử Ký, Hoàng Minh Đại Chính Ký, Hoàng Minh Đại Huấn Ký và đã được lần lượt in ra. Riêng bộ sau cùng Minh Lịch Triều Chư Thần Truyện chưa soạn xong thì ông mất. Gia cảnh ngày càng xuống dốc nên con cháu phải đem bộ bản thảo dở dang của ông bán cho một phú gia ở Nam Tầm là Trang Duẫn Thành.
Trang Duẫn Thành có một người con trai trưởng tên là Trang Đình Long, đỗ sinh viên, nhưng sau đó mắt bị lòa. Sau khi nghe đọc bộ bản thảo trên, Trang Đình Long đã cho mời nhiều nho sĩ đất Giang Nam như Mao Nguyên Minh, Phan Sanh Chương, Ngô Viêm...tổng cộng mười tám người đến tiếp tay để tu chỉnh và tăng bổ mấy tháng mới làm xong sách.
Bộ sách này có tên mới là Minh Sử Kỷ Lược, nhưng chưa kịp xuất bản thì Trang Đình Long mất vào khoảng đầu năm 1660.
Thể theo ước nguyện của con, cuối năm đó, Trang Duẫn Thành cho người khắc in sách. Nhưng trước khi phát hành, một bản đã gửi về bộ Lễ để xin phép vào tháng Giêng năm 1661, và đã được phê là "không có gì đáng ngại". Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau khi sách được phổ biến rộng rãi, thì bị các quan lại địa phương moi móc ra những điều “cấm kỵ” để vòi vĩnh tiền bạc của Trang Duẫn Thành, trong số đó có Ngô Chi Vinh, làm quan huyện Qui An, vừa bị bãi chức vì tội tham nhũng.
Điều cấm kỵ đó là những vị đầu của nhà Thanh chẳng hạn như Đa Nhĩ Cổn lại không được gọi là Nhiếp Chính Vương mà vẫn dùng tên riêng, niên hiệu trong sách cũng sử dụng niên hiệu triều Minh. Chê trách sử quan nhà Minh là Thượng Khả Hỉ, Cảnh Thân Minh và những tướng lãnh nhà Minh là Khổng Hữu Đức, Cảnh Tinh Trung, là những kẻ đầu hàng v.v...
Mặc dù sau đó Trang Duẫn Thành đã nghe lời viên đề lại ở phủ Tùng Khôi tướng quân là Trình Duy Phiên, nhờ người sửa chữa gắp rồi khẩn cho in lại và đồng thời cho thu hồi tất cả bản in lần đầu, nhưng Ngô Chi Vinh vẫn cố tình tìm ra và đem dâng bản in cũ để lập công.
Mượn cớ này, đầu năm 1662, Ngao Bái (một Tứ mệnh đại thần) cử hai khâm sai từ Bắc Kinh xuống Hàng Châu và Chiết Giang, đem theo mấy trăm binh sĩ, bắt giam hết những người có liên quan để tra xét.
Theo lời kể của các tác giả, thì ngay sau đó toàn gia họ Trang bị giải về kinh. Trang Doãn Thành ở trong ngục chịu đánh đập không nổi nên đã tự sát trong ngục. Trang Đình Long chết rồi cũng bị quật mồ lên chịu tội phanh thây. Cả nhà họ Trang mấy chục người, từ mười lăm tuổi trở lên đều bị xử trảm, vợ con thì bị đày đi Phiên Dương, hoặc làm nô tì cho các kỳ binh Mãn Châu.
Tiền Lễ bộ thị lang Lý Lệnh Triết là người đề tựa sách thì bị xử lăng trì, bốn người con đều bị xử trảm. Hàng Châu tướng quân Tùng Khôi, Tuần phủ Chiết Giang Chu Xương Tô, Án sát Lý Hoán, Huấn đạo Triệu Trinh Đồng, Học chính Hồ Thượng Hành, Đề đốc Lương Hóa Phong, Thủ đạo Trương Võ Liệt, v.v...tùy theo tội nặng nhẹ mà bị giam hoặc bị giết chết.
Hai Huấn đạo mới ở huyện Quy An bị quy tội "biết việc mà che giấu", "xử lý công việc tuỳ tiện", nên đều bị xử tội treo cổ chết, trong đó Đàm Hy Mẫn mới làm quan được 3 tháng, Vương Triệu Trinh chỉ mới được chưa đầy nửa tháng.
Đề lại Trình Duy Phiên phủ vì tội bày mưu và bao che bị xử lăng trì giữa chợ. Còn nhóm thợ khắc chữ như Dương Đạt Phổ, Lý Tường Phổ; người bán sách như Vương Vân Giao, Lục Đức Nho; những người mua và giấu sách như Tô Châu Thủy, Lý Thượng Bạch...cũng đều bị xử chém.
Trước đây khi đến xin tiền, Ngô Chi Vinh bị Chu Hựu Minh đuổi đi; nhân dịp này, Chi Vinh cũng đã cung khai với pháp ty phụ trách vụ án rằng cuốn sách có ghi rõ chiếu theo “Chu thị nguyên cảo thêm bớt nhuận sắc mà thành”. Chi Vinh còn tán thêm là cái tên Chu Hựu Minh, hiển nhiên lòng vẫn còn tưởng nhớ đến nhà Minh, vì thế mà Hựu Minh cùng năm đứa con trai đều bị chết chém.
Ngô Chi Vinh có công tố cáo nên được hưởng một nửa gia tài lớn của nhà họ Trang và Chu, ngoài ra còn ông được phục hồi quan chức, rồi làm đến Hữu thiên Đô Ngự sử. Năm Khang Hy thứ 4 (1665) Ngô Chi Vinh đột nhiên mắc phải một loại bệnh lạ, toàn thân cứ lở loét ra mà chết.
Năm 1663, vụ án kết thúc, sau khi đã giết chết cả thảy 72 người, và số người bị phát vãng nơi biên thùy đến hơn 100 [2].
1.2 Hậu quả:
Biểu hiện tập trung của chính sách tàn bạo và khủng bố dân tộc của nhà cầm quyền Mãn Thanh là các vụ: Mười ngày thảm sát Dương Châu, Ba lần làm cỏ gia định [3] và vụ án Minh Sử...
Hậu quả, giống như các vụ án văn tự xảy ra đầu đời Minh, là trong vòng tám mươi năm, một lượng lớn những tác phẩm tầm thường vô vị, tô son điểm phấn cho giai cấp thống trị, cho giai cấp địa chủ ra đời. Tuy nhiên, điểm khác nhau là vào thời kỳ này cũng đã có được một số tác phẩm phản ánh cuộc sống nghèo khổ của nông dân và phản đối sự bức hại chủng tộc, như:Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Thủy hử hậu truyện của Trần Thẩm, Thuyết nhạc toàn truyện của Tiền Thái, Trường sinh điện của Hồng Thăng, Mạc Lăng Xuân của Ngô Vĩ Nghiệp, thơ ca của Cố Viêm Võ, Khuất Đại Quân...[4]
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, nhờ đầu đời Thanh, có những vua như Khanh Hi, Càn Long, vừa giỏi võ bị, vừa trọng văn hóa. Họ khôn khéo hơn các vua đầu đời Nguyên. Họ vừa cho mở nhiều khoa thi để thu dùng những kẻ sĩ, vừa cấm lập xã (đoàn thể), lập hội. Kẻ nào có giọng chê bai nhà Thanh, nhất là trong sách vở thì đều bị tử hình, mà vụ án đã làm 70 người bị chết chỉ vì cuốn Minh Sử có phạm đến điều húy kị...là một minh chứng [5].

II. Vụ án Điềm kiềm ký văn:
Đới Danh Thế (1653-1713), một danh sĩ ở Đồng Thành, sau khi đọc xong bộ sách Điềm Kiềm ký văn của Tiến sĩ Phương Hiếu Tiêu (lúc này đã mất), đã phát hiện được một số ghi chép không đúng sự thật và ông quyết tâm tìm thêm sử liệu để khảo đính lại. Nguyên nhân vụ án phát xuất từ ý định đó.
2.1 Phương Hiếu Tiêu và sách Điềm kiềm ký văn:
Phương Hiếu Tiêu (chưa rõ năm sinh, năm mất và quê quán) còn có tên là Phương Huyên Thành, tự là Hiếu Tiêu, lại còn có hiệu là Lâm Cương. Ông thi đỗ Tiến sĩ năm nào chưa rõ, được bổ làm Thị Độc học sĩ.
Năm Thuận Trị thứ 11 (1654), ông lại được cử làm mưu sĩ cho nhà vua, và rất được quí trọng. Năm Thuận Trị thứ 14 (1657), Phương Du là ngườì Đồng Thành được mời làm Chủ khảo kỳthi Hương ở Giang Nam.
Vì tư lợi, Phương Du lấy đỗ bất công, làm cho sĩ tử ở đây vô cùng phẫn nộ. Trong số đỗ có con của Phương Củng Càn là đồng tông với Phương Du, và người em trai thứ 5 của Phương Hiếu Tiêu là Phương Chương Thành.
Không lâu sau, Cấp sự trung âm Ứng Tíết dâng biểu tố cáo Phương Chương Thành thi đỗ là do đút lót. Vua Thuận Trị xem xong vô cùng tức giận bèn cho cách chức Chủ khảo Phương Du và Tiền Khai Tôn cùng toàn bộ các quan coi việc chấm thi. Lại ra lệnh bắt Phương Chương Thành, Phương Củng Càn về kinh tra xét.
Tháng 3 năm Thuận Trị thứ 15 (1658), nhà vua cho sát hạch lại số cử nhân do Phương Du chấm đỗ, rồi công nhận 24 người đủ tư cách, xoá tên 14 người. Không lâu sau với tội danh "mua bán thi cử làm rối kỷ cương", Phương Du và Tiền Khai Tôn bị chém đầu, còn các quan đồng khảo khác đều bị xử treo cổ.
Phương Chương Thành và 8 sĩ tử khác bị phạt đánh 40 gậy trước công đường, bị tịch thu gia sản, cả nhà phải lưu đầy đi Ninh Cổ Tháp. Tiến sĩ Phương Hiếu Tiêu cũng bị lưu đày theo.
Khi Khang Hi lên ngôi ra lệnh đại xá thiên hạ (1662), cha con Phương Hiếu Tiêu mới được cho về quê.
Năm Khang Hi thứ 12 (1673), Phương Hiếu Tiêu đi du ngoạn xuống phía Nam, nhưng đến nơi thì gặp lúc Bình Tây Vương Ngô Tam Quế khởi binh chống lại nhà Thanh ở Vân Nam. Phương Hiếu Tiêu lại bị Ngô Tam Quế bắt giam. Ở trong ngục, Phương Hiếu Tiêu giả bệnh, nhân lúc lính canh không chú ý, ông trốn thoát được.
Lần ngao du này tuy gặp nạn, nhưng ông cũng thu thập được không ít sử liệu về chính quyền nhà Nam Minh. Về nhà, ông viết luôn quyển "Điềm Kiềm ký văn" ghi chép lại tương đối tỉ mỉ việc chính sự của vương triều này.
2.2 Sách chưa xong, họa đã đến:
Biết việc Đới Danh Thế muốn biên tập lại sách “Điềm Kiềm ký văn", học trò của ông là Xa Trạm, tình cờ gặp được một chứng nhân đó là Lê Tri, nên báo lại cho thầy.
Trước đây, Lê Tri từng làm quan trong triều và từng hầu hạ Quế vương Chu Do Lang (1646-1662). Năm Vĩnh Lịch thứ 15 (1661), Quế Vương bị Ngô Tam Quế hại, khiến Lê Tri phải chạy khỏi cung đình, rồi trở thành nhà sư đi khất thực khắp nơi.
Mừng rỡ, nhưng Đới Danh Thế không gặp được Lê Tri vì nhà sư này đã đi xa. Sốt ruột vì công việc của mình bị chậm trễ, Đới Danh Thế viết thư nhờ Xa Trạm chép lại những gì đã nghe được từ Lê Tri rồi gửi đến cho ông.
Không lâu sau, Đới Danh Thế nhận được tài liệu, đem đối chiếu với sách "Điềm Kiềm ký văn" và đã phát hiện có nhiều sự kiện trái ngược nhau, nhưng vì ông không dám quyết nên cũng không thể thêm bớt được gì.
Đới Danh Thế còn có một học trò khác tên là Vưu Vân Ngạc, vì yêu văn bút của thầy, nên đã sao chép được hơn 100 bài văn của Đới Danh Thế.
Năm Khang Hi thứ 41 (1702), Vưu Vân Ngạc thu thập thêm những bản thảo của thầy đế khắc in. Do Đới Danh Thế ở Nam Sơn Cương, bèn lấy tên sách là "Nam Sơn tập ngẫu sao", gọi tắt là "Nam Sơn tập".
Năm Đới Danh Thế 52 tuổi (1705), ông mới bắt đầu đi thi Hương ở phủ Thuận Thiên và đã đỗ đạt. Bốn năm sau, ông lại đi thi Hội và đỗ Đệ nhất danh cống sĩ. Vào thi Đình lại đỗ Giáp đệ nhị danh tức Bảng nhãn và được phong chức Biên tu Hàn Lâm viện.
Lúc đó, con của Tả Đô Ngự sử Triệu Thân Kiều là Triệu Hùng Chiêu lại đỗ Trạng nguyên, mọi người xôn sao bàn tán, cho rằng tài học của Đới Danh Thế trội hơn Triệu Hùng Chiêu, việc Chiêu đỗ trạng chắc là nhờ Tả Đô Ngự sử Triệu Thân Kiều giúp đỡ.
Nghe được, Triệu Thân Kiều liền tìm cách dẹp tin đồn và ngầm tìm cớ triệt bỏ Đới Danh Thế.
Năm Khang Hi thứ 50 (1711), Triệu Thân Kiều dùng quyển "Dữ Dư Sinh thư" trong "Nam Sơn tập" để dâng sớ tố cáo Đới Danh Thế, phạm tội “phóng túng ngông cuồng, bất cẩn, mục đích cuối cùng là tạo nên sách phản và trục lợi”. Khang Hi tiếp biểu xong, giao ngay cho bộ Hình nhanh chóng tra xét.
Thế là hai họ Phương và Đới cùng tất cả những người tham gia in ấn, đề tựa sách "Nam Sơn tập" đều bị bắt giữ. Mấy ngày sau, bộ Hình dâng báo cáo lên nhà vua.
Căn cứ tấu biểu của bộ Hình, vua Khang Hi cho rằng vụ án quá nghiêm trọng, bèn triệu tập Cửu khanh nghị án, đồng thời ra chiếu chỉ rằng: Họ Phương trong vụ án đều là một lũ phản loạn. Phương Quang Thêm đầu hàng theo Ngô Tam Quế làm ngụy tướng, Phương Hiếu Tiêu cũng từng làm sứ giả (thật ra là bị bắt giam) cho Ngô Tam Quế Dòng họ này quyết không thể để lại được.
Căn cứ vào ý chỉ của Vua, Hình bộ thượng thư và Cửu Khanh đồng đưa ra ý kiến: Phương Hiếu Tiêu mắc bệnh cuồng điên, đáng thương đã viết "sách nghịch" lại đến Đới Danh Thế cố tình vận dụng sai thêm rồi cho in ấn phát hành, lưu truyền. Trong sách có nhiều câu chữ ngông cuồng, bất chấp trung hiếu đại nghĩa. Đây là quốc pháp, Phạm vào tội trời đất khó dung phải xét xử trừng phạt nghiêm khắc.
Theo đề nghị của bộ Hình thì phải có hơn 300 người chịu án. Phạt như thế thì quá nặng và phạm vi liên luỵ cũng quá rộng, không có lợi cho việc nhà Thanh đang mua chuộc lòng người.
Sau khi cân nhắc, năm 1713, vua Khang Hi ra quyết định cuối cùng: Xử chém Đới Danh Thế, Lưu đày hai họ Phương, Đới đi Hắc Long Giang, những người như Vưu Vân Ngạc, Phương Bao... bị giam vào Bát kỳ.
Việc xử lần này so với vụ án Minh Sử cách đây 50 năm thì đã rộng lượng hơn nhiều. Đây có thể do những năm cuối đời Khang Hy, việc chính sự và xã hội đã khá ổn định. Trong tình thế như vậy, vương triều nhà Thanh cũng không cần phải giết chóc để thị uy nữa.

Bùi Thụy Đào Nguyên, lược kể.


Chú thích:
1. Phan Khoang, Trung Quốc sử lược (bản in lần thứ 4). Nxb Văn Sử học ấn hành, Sài Gòn, 1970, tr. 357-358.
2. Xem thêm chi tiết vụ án trong Lời Phi Lộ in đầu bộ sách Lộc Đỉnh ký của nhà văn Kim Dung (bản điện tử, có trên internet).
3. Do nhân dân ở hai nơi này phẫn uất, phản kháng mãnh liệt, nên sau khi quân Mãn Thanh phá được thành Dương Châu, họ đã giết 80 vạn người và chém đi chém lại ba lần ở thành Gia Định.
4. Theo Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 3). Sách do nhiều người soạn, Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện KHXH Trung Quốc, Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 3). Bản dịch của Nxb Giáo dục Việt Nam, 1995, tr. 481 và 484.
5. Nguyễn Hiến Lê (Đại cương Văn học sử Trung Quốc. Nxb Trẻ, tr. 621) và Sử Trung Quốc tập 2 (cũng của Nguyễn Hiến Lê. Nxb Văn hóa, 1997, tr. 182).